TAILIEUCHUNG - Luận văn Thạc sỹ Khoa học kinh tế: Đánh giá và so sánh mức độ hài lòng của của nhân viên đối với doanh nghiệp tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín-Huế
Thông qua việc tìm hiểu mức độ thỏa mãn của nhân viên đối với công việc hiện tại của họ, từ đó giúp ta có cái nhìn tổng quan về sự khác biệt trong mức độ đánh giá đối với doanh nghiệp của nhân viên ở hai loại hệ thống Ngân hàng thương mại nhà nước và Ngân hàng cổ phần thương mại trên địa bàn thành phố Huế. Từ đó đưa ra các biện pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý nguồn nhân lực cho mỗi ngân hàng trong thời gian tới. | PHẦN I ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Tính cần thiết của đề tài Nguồn nhân lực là một nguồn lực sống, đồng thời là một nguồn vốn bền vững. uế Từ xa xưa triết học phương Đông đã coi trọng việc dùng người, do vậy đã có câu "Thiên thời, địa lợi, nhân hoà"; có nghĩa là muốn làm việc gì thành công thì cũng tế H phải hội đủ ba yếu tố thời cơ, địa điểm và con người. Trong kinh doanh, đặc biệt là trong thời đại kinh tế tri thức, vai trò của lao động trí óc ngày càng trở nên quan trọng hơn, thì con người là nguồn lực quý nhất của xã hội ngày nay, là nguồn lực in công hay thất bại của doanh nghiệp. h mang tính chiến lược và là một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự thành Thuật ngữ "nguồn nhân lực" đã không còn xa lạ ở Việt Nam trong những năm cK gần đây. Trước thềm hội nhập WTO, các doanh nghiệp Việt Nam ngoài việc phải đối mặt với những khó khăn về ngành nghề, thương hiệu, tài chính, thị trường,. họ còn một nỗi lo canh cánh khác trong cuộc cạnh tranh là làm sao gây dựng được "đội quân tinh nhuệ". Đó là đội ngũ nhân viên có năng lực, nhiệt tình và cam kết gắn bó lâu dài với doanh nghiệp. Tuy nhiên, để có thể có được và giữ được đội ngũ Đ ại CBCNV như vậy là một thách thức lớn đối với doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ như ngân hàng, là lĩnh vực yêu cầu chất xám cao và nhân lực còn được xem như là nguyên liệu đầu vào để cung cấp ng dịch vụ. Năm 2008 được xem là một năm đầy sóng gió của ngành tài chính ngân hàng ườ Việt Nam. Bước sang năm 2009, hệ thống ngân hàng Việt Nam nói chung và Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nói Tr riêng phải đối mặt với nhiều áp lực; mở rộng mạng lưới, nâng cao công nghệ, gia tăng dịch vụ, biến động của thị trường tiền tệ và chính thức đối mặt với ngân hàng 100% vốn nước ngoài. Năm 2009 được coi là một năm "sàng lọc" ngân hàng Việt Nam. Nhằm có thể trụ vững trên thị trường đầy những thách thức đó, các ngân hàng đã không ngừng cải tiến sản phẩm, .
đang nạp các trang xem trước