TAILIEUCHUNG - Đề tài: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN LƯU ĐỘNG TẠI TỔNG CÔNG TY DA GIẦY VIỆT NAM

Đối tượng lao động của doanh nghiệp kinh doanh lưu chuyển hàng hoá được chia thành hai bộ phận: Một bộ phận là những hàng hoá doanh nghiệp mua về dự trữ để sản xuất và các sản phẩm làm ra để tiêu thụ, một bộ phận khác bao gồm bao bì vật liệu, các công cụ nhỏ bộ phận này biểu hiện dưới hình thức hiện vật, gọi là tài sản lưu động của doanh nghiệp. Tài sản lưu động của doanh nghiệp dịch vụ nói chung bao gồm: tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu thông. Tài sản lưu động. | Qua bảng 6 ta thấy mức độ dự trữ hàng hoá năm 1999 cao hơn mức dự trữ hàng hoá năm 2000 và 2001. Năm 2000 mức dự trữ là VND giảm với tỷ lệ 48,8% so với năm 1999, mức dự trữ năm 2001 là VND tăng với tỷ lệ 46,99% so với năm 2000. Do tỷ lệ tăng của doanh thu theo giá vốn thấp hơn tỷ lệ tăng của mức dự trữ hàng hoá bình quân nên được đánh giá chưa hợp lý. Hệ số vòng quay hàng tồn kho của ba năm lần lượt là: 4,4 (năm 1999); 8,88 (năm 2000); 6,28 (năm 2001). Ta có thể thấy hệ số vòng quay hàng tồn kho có chiều hướng giảm, tốc độ giảm của năm 2001(29,28%) đã giảm đáng kể sau năm 2000 tăng (101,81%). Nhìn chung tình hình tiêu thụ hàng hoá tại công ty năm 2000 là tốt hơn so với năm 1999 và năm 2001. Trong năm 2001, nhu cầu thị trường thế giới sút giảm đã làm ảnh hưởng không nhỏ tới mức tiêu thụ hàng hoá, việc thay đổi một số mặt hàng xuất khẩu và tiêu chuẩn xuất khẩu đã làm cho một bộ phận không nhỏ hàng hoá còn ứ đọng chậm luân chuyển ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh. Đây cũng là hậu quả của việc nắm bắt chưa tốt chính sách của Nhà nước và triển khai thực hiện mục tiêu chưa tốt.

TỪ KHÓA LIÊN QUAN
TÀI LIỆU MỚI ĐĂNG
Đã phát hiện trình chặn quảng cáo AdBlock
Trang web này phụ thuộc vào doanh thu từ số lần hiển thị quảng cáo để tồn tại. Vui lòng tắt trình chặn quảng cáo của bạn hoặc tạm dừng tính năng chặn quảng cáo cho trang web này.