TAILIEUCHUNG - Chỉ số tài nguyên nước mặt lưu vực sông Vệ
Bài báo này đề cập đến việc xây dựng bộ chỉ số tài nguyên nước mặt áp cho lưu vực sông Vệ - tỉnh Quảng Ngãi nhằm đưa ra các thông tin, đánh giá nhanh về tình hình tài nguyên nước mặt, khai thác sử dụng và các vấn đề mà lưu vực đã đang và sẽ gặp phải. Mười ba chỉ số tài nguyên nước mặt được sử dụng và tính toán cho lưu vực sông Vệ ở thời điểm hiện trạng 2013 và dự báo đến năm 2020, một số chỉ số xem xét cả năm và mùa khô và được chia về hai nhóm chính gồm 9 chỉ số thuộc nhóm đánh giá về nguồn nước mặt và 4 chỉ số thuộc nhóm đánh giá về khai thác sử dụng nước mặt. | Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 32, Số 3S (2016) 67-76 Chỉ số tài nguyên nước mặt lưu vực sông Vệ Nguyễn Ngọc Hà1,2,*, Nguyễn Tiền Giang1, Nguyễn Mạnh Trình2 1 Khoa Khí tượng Thủy văn và Hải dương học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN, 334 Nguyễn Trãi, Hà Nội, Việt Nam 2 Trung tâm Quy hoạch và Điều tra Tài nguyên Nước Quốc gia - Bộ Tài nguyên và Môi trường, 93/95 Vũ Xuân Thiều, Sài Đồng, Long Biên, Hà Nội Nhận ngày 08 tháng 8 năm 2016 Chỉnh sửa ngày 26 tháng 8 năm 2016; Chấp nhận đăng ngày 16 tháng 12 năm 2016 Tóm tắt: Bài báo này đề cập đến việc xây dựng bộ chỉ số tài nguyên nước mặt áp cho lưu vực sông Vệ - tỉnh Quảng Ngãi nhằm đưa ra các thông tin, đánh giá nhanh về tình hình tài nguyên nước mặt, khai thác sử dụng và các vấn đề mà lưu vực đã đang và sẽ gặp phải. Mười ba (13) chỉ số tài nguyên nước mặt được sử dụng và tính toán cho lưu vực sông Vệ ở thời điểm hiện trạng 2013 và dự báo đến năm 2020, một số chỉ số xem xét cả năm và mùa khô và được chia về hai nhóm chính gồm 9 chỉ số thuộc nhóm đánh giá về nguồn nước mặt và 4 chỉ số thuộc nhóm đánh giá về khai thác sử dụng nước mặt. Kết quả xây dựng bộ chỉ số tài nguyên nước mặt lưu vực sông Vệ cho thấy: hơn 90% tổng lượng nước phần thượng nguồn được chuyển về trung và hạ lưu của lưu vực, điều này có nghĩa chỉ có hơn 10% lượng nước nước giữ lại và sử dụng ở trên phần thượng nguồn; hệ thống hồ chứa trên lưu vực mới chỉ góp phần đảm bảo an ninh về nước, chưa có dung tích để phòng lũ hạ du và an ninh năng lượng; đến năm 2020 sử dụng nước trên các tiểu lưu vực cao gấp 2 đến 5 lần so với 2013, vượt qua mức sử dụng bình quân toàn quốc và rơi vào khu vực chịu sức ép cao về tài nguyên nước, vùng trung và hạ du sông Vệ chịu sức ép từ trung bình lên mức cao và có thể chịu sức ép cao ngay cả khi được bổ sung lượng nước mùa khô từ thượng nguồn. Từ khóa: Tài nguyên nước mặt, lưu vực sông Vệ, chỉ số tài nguyên nước mặt. 1. Đặt vấn đề hội. Trước thực trạng đó, có được những thông tin
đang nạp các trang xem trước