TAILIEUCHUNG - Gãy xương hàm dưới và bước đầu ứng dụng điều trị bằng nẹp vít tại Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên
Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện trên 99 bệnh nhân gãy xương hàm dưới được điều trị tại khoa Răng Hàm Mặt, Bệnh viện đa khoa trung ương Thái Nguyên với mục tiêu xác định đặc điểm dịch tễ học lâm sàng, phân loại và nhận xét bước đầu điều trị gãy xương hàm dưới bằng nẹp vít. | GÃY XƢƠNG HÀM DƢỚI VÀ BƢỚC ĐẦU ỨNG DỤNG ĐIỀU TRỊ BẰNG NẸP VÍT TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TRUNG ƢƠNG THÁI NGUYÊN Lê Thị Thu Hằng, Hoàng Tiến Công Trường Đại học Y Dược – Đại học Thái Nguyên TÓM TẮT Nghiên cứu mô tả cắt ngang đƣợc thực hiện trên 99 bệnh nhân gãy xƣơng hàm dƣới đƣợc điều trị tại khoa Răng Hàm Mặt, Bệnh viện đa khoa trung ƣơng Thái Nguyên với mục tiêu xác định đặc điểm dịch tễ học lâm sàng, phân loại và nhận xét bƣớc đầu điều trị gãy xƣơng hàm dƣới bằng nẹp vít. Các thông tin đƣợc thu thập dựa vào mẫu bệnh án nghiên cứu thiết kế sẵn. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, gãy xƣơng hàm dƣới chủ yếu gặp ở nam (88,9%), ở nhóm tuổi 21-40 (53,5%). Nguyên nhân thƣờng gặp là tai nạn giao thông (75,8%) đặc biệt là tai nạn xe máy. Đa số bệnh nhân gãy xƣơng 1 đƣờng (78,8%). Bên cạnh đó, vị trí gãy gặp nhiều nhất là vùng cằm (39,4%) và cành ngang (37,4%). Ứng dụng phƣơng pháp điều trị kết hợp xƣơng bằng nẹp vít đƣợc thực hiện cho 36,4% bệnh nhân, đặc biệt là vị trí gãy ở cành ngang. Liên quan giữa phƣơng pháp và thời gian điều trị tại viện có ý nghĩa thống kê với p0,05 0,082 >0,05 >0,05 0,004* * ANOVA Những trƣờng hợp gãy xƣơng ổ răng chủ yếu đƣợc điều trị bảo tồn (33,3%) và dùng chỉ thép (46,7%). Sự khác biệt về phƣơng pháp điều trị trong gãy xƣơng ổ răng có ý nghĩa thống kê với p=0,042. Trong điều trị gãy xƣơng ở vị trí cành ngang, số ca áp dụng nẹp 89(01)/1: 264 - 269 vít và chỉ thép tƣơng đƣơng nhau, cùng chiếm gần một nửa. Đối với điều trị những trƣờng hợp vị trí gãy ở vùng cằm, góc hàm và cổ lồi cầu, sử dụng chỉ thép dƣờng nhƣ đƣợc chỉ định rộng rãi hơn. Kết quả nghiên cứu đã thể hiện rõ sự khác biệt có ý nghĩa thống kê khi so sánh việc chỉ định các phƣơng pháp điều trị trong gãy mỏm vẹt (p=0,004). Một nửa ca trong số này đƣợc chỉ định điều trị bảo tồn. Chỉ định dung nẹp viet và chỉ thép là nhƣ nhau, cùng chiếm ¼ số ca. BÀN LUẬN Trong tất cả các ca nhập viện do gãy xƣơng hàm dƣới thì gần một nửa số bệnh nhân thuộc nhóm tuổi 21- 40. Đây là nhóm tuổi thƣờng tham gia
đang nạp các trang xem trước