TAILIEUCHUNG - Điều trị ung thư đại tràng giai đoạn II-III tại Bệnh viện Ung bướu Cần Thơ
Nghiên cứu thực hiện những mục tiêu sau: Khảo sát các đặc điểm về dịch tễ học, lâm sàng, can lâm sàng và giải phẫu bệnh học của nhóm nghiên cứu, đánh giá kết quả điều trị, tình trạng tái phát tại chỗ và di căn xa sau điều trị phẫu thuật tận gốc, đánh giá sống còn và các yếu tố có liên quan. | ĐIỀU TRỊ UNG THƯ ĐẠI TRÀNG GIAI ĐOẠN II-III TẠI BỆNH VIỆN UNG BƯỚU CẦN THƠ Huỳnh Quyết Thắng* TÓM TẮT Đặt vấn đề : Ung thư đại tràng là một trong những ung thư dẫn đầu trên thế giới. Theo kết quả ghi nhận ung thư quần thể trong giai đoạn 2001 – 2004, ở Cần Thơ, xuất độ mắc chuẩn theo tuổi của ung thư đại trực tràng ở nam giới là 15,2/100000, xếp hàng thứ tư ; ở nữ giới là 10,9/100000, xếp hàng thứ mặt mô bệnh học, ung thư tế bào tuyến chiếm trên 80% các trường hợp. Một phần lớn các trường hợp được xếp giai đoạn II và III và việc điều trị chủ yếu là phẫu thuật tận góc. Mục đích nghiên cứu : Chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm mục đích: - Khảo sát các đặc điểm về dịch tễ học, lâm sàng, can lâm sàng và giải phẫu bệnh học của nhóm nghiên cứu. - Đánh giá kết quả điều trị, tình trạng tái phát tại chỗ và di căn xa sau điều trị phẫu thuật tận gốc. - Đánh giá sống còn và các yếu tố có liên quan. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu mô tả cắt ngang 76 bệnh nhân ung thư đại tràng giai đoạn II, III, có kết quả giải phẫu bệnh là carcinoma tuyến, điều trị tại Bệnh Viện Ung Bướu Cần Thơ từ 01/01/2003 đến 31/12/2007. Kết quả nghiên cứu : Qua nghiên cứu, chúng tôi ghi nhận như sau: Tuổi mắc bệnh trung bình là 54, tỉ lệ nam/nữ là 1,34. - Triệu chứng cơ năng thường gặp nhất là đau bụng (88,2%). 42,1% trường hợp có CEA trước phẫu thuật > 5ng/ml. - Loại giải phẫu bệnh thường gặp nhất là carcinôm tuyến biệt hóa vừa (43,4%). - Các phẫu thuật tận gốc thường được thực hiện là cắt nửa đại tràng (65,9%) với biến chứng rò miệng nối đại tràng xảy ra trong 3,9% trường hợp. - Hóa trị hỗ trợ phác đồ 5FU-LV tương đối an toàn cho bệnh nhân và các độc tính có thể kiểm soát được. - Sống còn không bệnh và toàn bộ 5 năm lần lượt là 49,8% và 53,5%. - Phân tích đa biến cho thấy các yếu tố tiên lượng độc lập đối với sống còn không bệnh: giai đoạn bệnh, CEA trước phẫu thuật, độ mô học. - Riêng đối với sống còn toàn bộ, các yếu tố giai đoạn, CEA trước phẫu thuật là các yếu tố tiên lượng .
đang nạp các trang xem trước