TAILIEUCHUNG - Vai trò tài sản trú ẩn an toàn của vàng ở Việt Nam
Nghiên cứu kiểm ịnh vai trò của vàng là công cụ rào chắn rủi ro hay một tài sản trú ẩn an toàn cho c c nhà ầu tư ở Việt Nam. Dựa theo mô hình của Baur và McDermott (2010), Baur và Lucey (2010), nghiên cứu thực hiện trên chuỗi dữ liệu cổ phiếu có khối lượng lớn, ồng ôla (USD) và một danh mục kết hợp hai tài sản này. | Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 33, Số 1 (2017) 34-42 Vai trò tài sản trú ẩn an toàn của vàng ở Việt Nam Lê Trung Thành1,*, Nguyễn Đức Khương2 1 Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam 2 Sở Tài chính Tỉnh Thái Bình, 142 Lê Lợi, Thái Bình, Việt Nam Nhận ngày 23 tháng 6 năm 2016 Ch nh s a ngày 12 tháng 3 năm 2017; Ch p nhận ăng ngày 15 th ng 3 năm 2017 Tóm tắt: Nghiên cứu kiểm ịnh vai trò của vàng là công cụ rào chắn rủi ro hay một tài sản trú ẩn an toàn cho c c nhà ầu tư ở Việt Nam. Dựa theo mô hình của Baur và McDermott (2010), Baur và Lucey (2010), nghiên cứu thực hiện trên chuỗi dữ liệu cổ phiếu có khối lượng lớn, ồng ôla (USD) và một danh mục kết hợp hai tài sản này. Kết quả nghiên cứu cho th y, vàng là một tài sản trú ẩn an toàn mạnh cho các nhà ầu tư trên thị trường chứng khoán và thị trường ngoại tệ khi thị trường biến ộng ở mức trung bình. C c nhà ầu tư Việt Nam có thể s dụng vàng như một công cụ ể phòng ngừa rủi ro cho danh mục ầu tư. Từ khóa: Chứng khoán, tỷ giá Việt Nam ồng/USD, vàng, công cụ rào chắn, tài sản trú ẩn an toàn. lợi nhuận do vàng tăng gi . Bằng chứng về mối quan hệ ngược chiều ối với USD ược tìm th y trong các nghiên cứu của Nair, Choudhary và Purohit (2015) [6], Arezki và cộng sự (2014) [7], Omag (2012) [8]. Kết quả này ch ra rằng, giá vàng tăng, USD giảm gi , ngược lại, USD tăng, vàng giảm giá. Tại Việt Nam, trong những năm vừa qua, mối quan hệ giữa thị trường chứng khoán và thị trường vàng thể hiện một cách phức tạp (Hình 1). Có thể th y giá vàng và ch số VNI biến ộng ngược chiều trong giai oạn 20102016, ặc biệt là năm 2010-2014. Điều này dẫn ến các kết quả khác nhau giữa các nghiên cứu học thuật. Chẳng hạn, Trương Đông Lộc (2014) s dụng số liệu theo quý từ năm 2006-2012 th y rằng, giá vàng và tỷ lệ lạm phát có mối tương quan nghịch với tỷ su t sinh lời của các cổ phiếu [9]. Ngược lại, kết quả của Nguyễn Minh Kiều và Nguyễn Văn Điệp (2013) trong giai oạn 2004-2011
đang nạp các trang xem trước