Đang chuẩn bị nút TẢI XUỐNG, xin hãy chờ
Tải xuống
Quần thể cũng như bất kỳ cá thể sinh vật nào sống trong môi trường, không phải chỉ thích nghi một cách bị động với những thay đổi của môi trường mà còn cải tạo môi trường theo hướng có lợi cho mình. | Sự điều chỉnh số lượng quần thể Quần thể cũng như bất kỳ cá thể sinh vật nào sống trong môi trường không phải chỉ thích nghi một cách bị động với những thay đoi của môi trường mà còn cải tạo môi trường theo hướng có lợi cho mình. Quần thể hay ở mức tổ chức cao hơn quần xã hệ sinh thái sống trong môi trường vật lý xác định đều có cơ chế riêng để duy trì trạng thái cân bằng của mình với sức chịu đựng của môi trường trước hết là điều chỉnh kích thước của chúng. Dư thừa dân số là điều rất bất lợi cho quần thể sống trong môi trường có giới hạn. Do đó điều chỉnh số lượng phù hợp với dung tích sống của môi trường là một chức năng rất quan trọng đối với bất ký quần thể nào. Sự điều chỉnh số lượng của quần thể phải được xem là chức năng của hệ sinh thái mà quần thể chỉ là một bộ phận cấu thành. Vì vậy nếu cô lập quần thể khỏi hệ thống quần xã hệ sinh thái chắc chắn ta không đủ cơ sở để hiểu được cơ chế điều chỉnh số lượng của quần thể. Trong điều kiện tự nhiên hay trong thực nghiệm số lượng của quần thể chịu sự chi phối bởi hai nhóm yếu tố chính yếu tố không phụ thuộc vào mật độ và yếu tố phụ thuộc vào mật độ . Nhóm yếu tố đầu được hiểu là nếu khi mật độ quần thể biến đổi mà tác động của yếu tố đó vẫn duy trì ở một mức ổn định hay nói cách khác ảnh hưởng tác động của nó không phụ thuộc vào kích thước quần thể. Còn nhóm thứ hai được hiểu là ảnh hưởng của chúng thường gia tăng theo mức độ tiệm cận của số lượng với giới hạn trên của kích thước quần thể nhưng cũng có thể bị chi phối bởi mối liên hệ ngược tức là mật độ hay số lượng quần thể càng tăng thì mức độ ảnh hưởng lại giảm. Các nhóm yếu tố trên được xem như một trong các cơ chế chủ yếu ngăn chặn sự dư thừa dân số và xác lập trạng thái cân bằng bền vững. E.P Odum 1983 đã .