Mác và Ăng-ghen là đôi bạn chiến đấu chí thân, là hai nhà triết học vĩ đại trong thế kỉ XIX.
Qua "Bài phát biểu đọc trước mộ Mác", Ăng-ghen đã ca ngợi những cống hiến to lớn của Mác và biểu lộ tình cảm tiếc thương của những người cộng sản đối với người thầy vĩ đại của giai cấp công nhân trên toàn thế giới.
1. Mở đầu bài phát biểu, Ăng-ghen đau buồn nhắc lại giây phút lâm chung của Mác: "Ngày 14 tháng ba (năm 1883), buổi chiều, vào lúc ba giờ kém mười lăm phút...". Ăng-ghen tôn vinh Mác là "nhà tư tưởng vĩ đại nhất trong số những nhà tư tưởng hiện đại". Ông đã dùng ngôn từ trang trọng, lối nói giảm để nén bớt nỗi đau thương của mình đối với người bạn thân thiết vừa mới qua đời: "đà ngừng suy nghĩ', "chúng tôi đã thấy Mác ngủ đi thanh thản", "nhưng là giấc ngủ ngàn thu". "Chết" là quy luật tất yếu của tạo vật, của con người. Sống ở trên đời, ai cũng có sinh, có tử. Có người sau khi nhắm mắt xuôi tay là hết: "Thân cát bụi lại trở về cát bụi" (Kinh Thánh): "Trăm năm còn có gì đâu? / Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì" (Nguyễn Gia Thiểu). Nhưng tình người, tình đời vốn sâu nặng. Mỗi một cái tang thường để lại nhiều tổn thất, đau thương cho người thân. Mác "ngừng suy nghĩ' - tổn thất này thật là lớn lao, đau thương này thật là vô hạn. Đối với giai cấp vô sản, đối với khoa học lịch sử thì việc Mác qua đời "là một tổn thất không sao lường hết được". Nỗi đau sẽ thấm sâu vào thời gian và lòng người vì "Sau đây, người ta sẽ cảm thấy một nỗi trống trải do cái chết của bậc vĩ nhân gây ra".
2. Phần thứ hai của bài phát biểu, Ăng-ghen dùng những lời tốt đẹp nhất đánh giá các cống hiến to lớn của Mác trên nhiều lĩnh vực về triết học, về hoạt động cách mạng...
a. Tầm vóc của Mác vô cùng vĩ đại. Nếu Đác-uyn, nhà tự nhiên học và sinh vật học người Anh, nhà bác học thiên tài "đã tìm ra quy luật phát triển của thế giới hữu cơ" thì Mác "đã tìm ra quy luật phát triển của lịch sử loài người". Mác đã chỉ ra kinh tế là nền tảng của chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo; các thể chế nhà nước, các quan điểm pháp quyền, nghệ thuật, tôn giáo,... của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia, mỗi thời đại chỉ có thể phát triển trên nền táng kinh tế và cơ sở sản xuất, để làm ra những tư liệu sinh hoạt vật chất phục vụ cuộc sống con người, thúc đẩy tiến hoá xã hội. Đó là cống hiến vĩ đại thứ nhất của Mác.
b. Tầm vóc của Mác vô cùng vĩ đại. Sau khi so sánh với Đác-uyn, ca ngợi cống hiến của Mác đã tìm ra quy luật phát triển của lịch sử loài người, Ăng-ghen sử dụng phương pháp suy luận tăng cấp để khảng định sự vĩ đại của Mác "không phải chỉ có thế thôi". Mác đã "tìm ra" quy luật vận động riêng của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa hiện đại và của xã hội tư sản do phương thức đó đề ra. Mác đã "phát hiện ra" giá trị thặng dư của nền kinh tế, của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa hiện đại. Ăng-ghen đã dùng hình ảnh "lập tức một ánh sáng đã hiện ra" trong bóng tối, và dùng cách lập luận tương phản giữa Mác với các nhà kinh tế học tư sản, các nhà phê bình xã hội chủ nghĩa để khẳng định cống hiến to lớn của Mác, khi ông viết: Với việc phát hiện ra giá trị thặng dư trong lĩnh vực này thì lập tức một ánh sáng đã hiện ra trong khi tất cả các công trình nghiên cứu trước đây của các nhà kinh tế học tư sản cũng như của các nhà phê bình .xã hội chủ nghĩa vần đều mò mẫm trong bóng tối". Đó là cống hiến vĩ đại thứ hai của Mác.
Mác là một thiên tài, một nhà triết học xuất chúng. Ăng-ghen đã dùng phép suy luận tăng cấp để ca ngợi Mác là một người hạnh phúc nhất trong những người hạnh phúc vì ông đã có hai phát minh cống hiến cho nhân loại: "hai phát minh như vậy đối với một đời người cũng là đủ rồi. Người nào mà có được một phát minh như vậy thì hẳn là đã hạnh phúc lắm rồi".
Mác là "con người của khoa học", ông đã nghiên cứu nhiều lĩnh vực và "đã có những phát minh khác nhau trong mỗi lĩnh vực": thậm chí cả trong lĩnh vực toán học, "nhưng không một lĩnh vực nào ông nghiên cứu hời hợt cả". Đối với Mác, khoa học "là một động lực lịch sử, một lực lượng cách mạng". Ông không chỉ say mê nghiên cứu mà còn có "một niềm vui thực sự khi việc ứng dụng của mỗi một phát minh mới mà.mọi người "chưa thể nhìn thấy ngay được". Niềm vui của Mác "còn hoàn toàn khác nữa" khi mà một phát minh có ảnh hưởng ngay đến công nghiệp, đến sự phát triển lịch sử nói chung. Qua đó, ta biết hạnh phúc của Mác, niềm vui của Mác không chỉ hướng về các phát minh khoa học mà còn đem toàn bộ trí tuệ, tâm hồn của mình gắn liền với tiến bộ xã hội, với hạnh phúc của con người. Vì thế, Mác đã theo dõi rất kĩ các phát minh về điện, phát minh về kĩ thuật truyền tải điện công nghiệp của Mác-xen Đê-prê.
Ăng-ghen đã dùng biện pháp so sánh lập luận tăng cấp khi nói về "niềm vui thực sự của Mác đối với các phát minh khoa học và ứng dụng khoa học:
"Mỗi một phát minh mới trong bất cứ một khoa học lí luận nào mà thậm chí, đôi khi việc ứng dụng nó vào thực tế, người ta chưa thể nhìn thấy ngay được thì đã có thể đem lại cho Mác một niềm VUI thực sự như thế nào rồi - nhưng niềm vui của ông còn hoàn toàn khác nữa, khi đó là một phát minh có ảnh hưởng cách mạng ngay đến công nghiệp, đến sự phát triển lịch sử nói chung".
c. Mác là một nhà cách mạng. Bằng cách này hay cách khác, Mác đã tham gia vào việc lật đổ xã hội tư bản và thiết chế nhà nước do nó dựng lên, ông đã tham gia vào sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản hiện đại, ông là "người đầu tiên" đã đem lại cho giai cấp vô sản "một ý thức về địa vị của bản thân mình và yêu cầu của mình,ý thức về điều kiện để giải phóng mình".
Ăng-ghen chỉ rõ: "Đấu tranh là hành động tự nhiên của Mác". Ông đã chứng minh tính chất phong phú, sôi nổi vể đấu tranh cách mạng của Mác, đấu tranh một cách "say sưa, kiên cường và có kết quả", và khẳng định là "không mấy người được như vậy". Trên lĩnh vực báo chí, từ năm 1842 đến năm 1861. Mác lúc làm cộng tác viên, lúc làm chủ biên, lúc làm tổng biên tập cho nhiều tờ báo tiến bộ, cấp tiến như tờ Báo Sông Ranh, tờ Tiến lên, tờ Báo Brúc-.xen Đức, tờ Báo Sông Ranh Mới, tờ Niu-oóc Diễn đàn Nhật báo. Ông còn viết "vô số những cuốn sách mỏng mang tính chất chiến đấu". Ông là một trong những người cộng sản sáng lập ra Hội Liên hiệp công nhân quốc tế vĩ đại. Ăng-ghen dùng hình ảnh "vòng hoa vinh quang" để tôn vinh sự nghiệp cao cả của Mác đối với phong trào cộng sản thế giới và giai cấp công nhân toàn quốc tế, "vòng hoa vinh quang của toàn bộ sự nghiệp đó, - đó chính là sự nghiệp mà ai .xây dựng nên nó đều lấy làm tự hào, thậm chí dù cho người đó không làm được gì thêm nữa ngoài việc đó". Đó là cống hiến vĩ đại thứ ba của Mác.
Tóm lại, sự cống hiến của Mác thật vô cùng to lớn. ông là nhà triết học vĩ đại, là con người của khoa học, là nhà cách mạng lỗi lạc về lí luận, về tổ chức, về đấu tranh thực tiễn, dù ở lĩnh vực nào ông cũng xứng đáng giữ vai trò tiên phong, xứng đáng là lãnh tụ thiên tài của giai cấp công nhân trên toàn thế giới. Ăng-ghen lúc thì dùng hình ảnh "một ánh sáng đã hiện ra" y lúc thì dùng hình ảnh "vòng hoa vinh quang' để ca ngợi cống hiến vĩ đại của Mác. Cách lập luận của Ăng-ghen rất chặt chẽ và biến hóa, lúc thì so sánh tăng cấp, lúc thì so sánh tương phản, lúc thì liệt kê để chứng minh những phát minh, những hoạt động cách mạng "say sưa, kiên cường và có kết quả' của vị lãnh tụ thiên tài của giai cấp công nhân quốc tế. Ngôn từ của Ăng-ghen rất trang trọng vừa biểu lộ niềm ngưỡng mộ tự hào, vừa đau xót tiếc thương.
3. Phần cuối bài phát hiểu y Ăng-ghen ca ngợi nhân cách cao đẹp và bản lĩnh kiên cường của Mác. Mặc dù ông "bị căm ghét nhiều nhất và bị vu khống nhiều nhất trong thời đại ông bị "trục xuất'' bị "vu khống và nguyền rủa", nhưng các chính phủ - cả chuyên chế lẫn cộng hòa, bọn tư sản - cá bảo thủ lẫn dân chủ cực đoan, đều bị Mác "gạt sang một bên'' coi khinh ''như là cái mạng nhện vướng chân''. "không thèm để ý" và "chỉ đáp lại khi thấy hết sức cần thiết mà thôi".
Mác mất đi không chỉ là tổn thất, để lại bao tiếc thương cho riêng một gia đình, một dòng họ, một dân tộc, một quốc gia mà là "hàng triệu người cộng sự cách mạng với ông ở khắp châu Âu và châu Mĩ, từ những hầm mỏ ở Xi-bia cho đến Ca-li-phoóc-ni-a, đã tôn kính, yêu mến và khóc thương ông".
Ăng-ghen đã tự hào nói rằng. Mác "có thể có nhiều kẻ đối địch nhưng chưa chắc ông đã có một kè thù riêng nào cả".
Các vĩ nhân xưa nay đều bất tử bới lẽ "Thác là thể phách, còn là tinh anh". Với Mác cũng vậy, "Tên tuổi và sự nghiệp của ông đời đời sống mãi ".
Có thể xem bài phát biểu này là bài "điếu văn" của Ăng-ghen đọc trước mộ Mác. Ăng-ghen đã thể hiện nỗi tiếc thương, ca ngợi công lao to lớn, khẳng định và tôn vinh sự nghiệp vĩ đại của Mác, người sáng lập ra chủ nghĩa cộng sản, người thầy của giai cấp công nhân trên toàn thế giới. Bài điếu văn này được viết bằng văn phong châu Âu hiện đại, cách lập luận chặt chẽ, cách nêu lí lẽ sắc sảo, cách đưa dẫn chứng sáng tỏ. Sự kết hợp giữa tình cảm và lí lẽ rất hài hòa.
Một ấn tượng sâu sắc đối với mỗi chúng ta khi đọc bài "điếu văn" này là được cúi đầu ngưỡng mộ một nhà triết học, nhà tư tưởng vĩ đại, cám động trước lời lẽ chân thành và tình bạn thắm thiết của Ăng-ghen đối với Mác, người đồng chí chiến đấu thuỷ chung.