Đọc bài Hịch tướng sĩ của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, vị tổng chỉ huy cuộc kháng chiến lần thứ hai của nhân dân Đại Việt chống giặc Nguyên Mông, khó ai quên được hình ảnh vô cùng cảm động của người anh hùng dân tộc khi vó ngựa quân xâm lăng ngấp nghé ngoài chốn biên ải. Ông tâm sự với tướng lĩnh dưới quyền:
- Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức rằng chưa xả thịt lột da nuốt gan uống máu quân thù, dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng cam lòng.
{Hịch tướng sĩ - Trần Quốc Tuấn)
Lời hịch bừng bừng sức nóng, hừng hực ngọn lửa căm thù như một âm vang hùng tráng vọng mãi trong lòng người đọc.
Luồng gió mang đầy hơi nóng của bầu nhiệt huyết yêu nước, mang hùng khí của dân tộc thổi qua hàng trăm năm lịch sử vẫn nóng bỏng một ý chí quật khởi chống ngoại xâm cùng với lòng tự hào dân tộc vô bờ bến, hào khí Đông A.
Nhà văn Nguyễn Trung Thành khi nhìn lại cả một chiều dài lịch sử chống ngoại xâm của nhân dân ta đã cảm khái mà thốt lên rằng: Nếu như phải vẽ lại lịch sử Việt Nam thì trang nào cũng phải vẽ một thanh gươm tự vệ và tô đậm một màu máu. Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần, Lê bao đời gây dựng nền độc lập. Có triều đại nào không phải kinh qua những cuộc chiến đấu chống giặc ngoại xâm, có thời đại nào không vang dội những chiến thắng nức lòng, có người dân của thời đại nào mà không sôi sục trong huyết quản một dòng máu yêu quê hương tha thiết? Hào khí Đông A, hiểu theo chiết tự, là hào khí của thời đại nhà Trần, nhưng hào khí ấy bắt nguồn từ lịch sử xa xưa các vua Hùng dựng nước và trực tiếp bắt nguồn từ chiến thắng của Ngô Quyền đối với quân Nam Hán (938), chiến thắng của Lí Thường Kiệt (1076). Hào khí âm vang lan truyền tới mãi mãi sau này, trong niềm kiêu hãnh dân tộc của người dân đất Việt.
Làm sao có thể lí giải được một dân tộc nhỏ bé, một đất nước bé nhỏ lại có thể hòa lẫn chiến thắng quân Nguyên Mông - một đế quốc hùng mạnh và hung hãn nhất của thời bấy giờ, đi tới đâu là gieo rắc sự chết chóc cho mọi sinh linh tới đó: Vó ngựa quân Nguyên Mông đi tới đâu, thì cỏ không còn mọc được tới đó, nếu như không nghe qua những lời thơ hùng tráng của các thi sĩ - tướng sĩ, hay chỉ là một kẻ khách không thôi, cũng đượm một hào khí Đông A, cũng ngùn ngụt một niềm kiêu hãnh, tự hào không hề che giấu.
Hoành sóc giang sơn cáp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu.
(Múa giáo non sông trải mấy thâu
Ba quân hùng khí át sao Ngưu).
(Thuật hoài - Phạm Ngũ Lão)
Câu thơ dịch là Múa giáo, không sát với nguyên bản và vì thế đã giảm mất tư thế “hoành sóc” hiên ngang của người tráng sĩ. Hoành sóc (cắp ngang ngọn giáo) thể hiện tư thế của người tráng sĩ, một tư thế ung dung đĩnh đạc, vừa tĩnh lại vừa động, vừa điềm đạm lại vừa hào hùng, thách thức. Đó là tư thế của một dân tộc biết được sức mạnh của mình và sức mạnh đó đã được trải qua bao cuộc thử thách, một tư thế vững vàng không thể lay chuyển được. Từ thế đứng của một tráng sĩ mà thấy thế đứng cả dân tộc, từ sức mạnh của một người mà thấy được sức mạnh của cả dân tộc, cả quân đội:
Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu.
Từ một thế đứng hiên ngang, câu thơ bỗng vút lên một ý tưởng lãng mạn, hay nói đúng hơn là từ một thế đứng, điệu thơ đã thăng hoa một cách rực rỡ và toả sáng hào quang lên tận trời xanh, át cả ánh sáng của sao Ngưu, sao Đẩu, những ngôi sao sáng nhất theo quan niệm của người xưa.
Trong thơ ca cổ điển, cái tôi thường ít được nói tới và những tâm trạng ẩn khúc của riêng một con người cũng hầu như không xuất hiện. Thế nhưng Phạm Ngũ Lão đã nói lên tâm sự của chính mình một cách thẳng thắn và cao đẹp:
Nam Nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu.
(Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu).
Đó là nỗi thẹn vì chưa trả được nợ công danh, nợ anh hùng vay trả trả vay, chưa báo đền nợ nước, bực vì sức mạnh không được như Gia Cát Lượng giúp nhà Hán ngày xưa, một nỗi thẹn thật đáng quý.
Hào khí Đông A đâu chỉ thể hiện ở lòng yêu nước căm thù giặc, tinh thần quật khởi lòng tự hào dân tộc. Nó còn nằm trong những khía cạnh tâm sự sâu kín của con người, là tâm sự đáng yêu của một chàng trai đất Việt, cũng là tâm trạng của thế hệ thanh niên thời bấy giờ, lúc nào cũng canh cánh thù nhà nợ nước, cũng đặt trách nhiệm gánh vác sự an nguy của đất nước trên đôi vai của chính mình. Hào khí ấy đã làm nên những chiến thắng lẫy lừng để rồi mai sau, người dân nào đi qua những mảnh đất thiêng liêng của chiến địa cũng thấy dậy lên trong mình một hào khí của dân tộc.
Đó cũng là cảm hứng làm nên sự bất hủ của bài Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu.
Bài Bạch Đằng giang phú được làm cuối đời Trần, lúc mà chế độ phong kiến nhà Trần đang dần dần đi vào con đường suy thoái, nhưng giữa cảm hứng bi tráng của bài phú, vẫn vút lên một khí thế hào hùng của dân tộc, niềm say sưa và tự hào không gì che giấu nổi trước những chiến công. Thế mới biết hào khí Đông A có sức âm vang và lay động lòng người tới mức nào.
Tinh thần thượng võ ở thời trung cổ không phải là không có những nét đẹp và khi nó đi vào thơ phú của Trương Hán Siêu để được hoà quyện với lòng tự hào dân tộc, nó đã làm nên bức tranh tuyệt đẹp, cái đẹp của sự hào hùng:
Thuyền bè muôn đội
Tinh kì phấp phới
Tì hổ ba quân
Giáo gươm sáng chói
Trận đánh thư hùng chửa phân
Chiến luỹ Bắc Nam chống đối.
Nhà thơ say sưa với trận đánh lịch sử như chính là đang sống với chiến cuộc, những nét bút tung hoành thể hiện một sự cảm khái cực độ:
Khác nào
Trận Xích Bích quân Tào Tháo tan tác tro bay
Trận Hợp Phì, giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi.
Và nếu như ở Thuật hoài, niềm tự hào của Phạm Ngũ Lão bốc đầy hùng khí thì ở Bạch Đằng giang phú, niềm tự hào đã chín một cách đằm thắm và vĩnh hằng, gắn với sự tồn tại của tự nhiên:
Đến nay sông nước tuy chảy hoài
Mà nhục quân thù khôn rửa nổi.
Sông nước chảy hoài, dòng chảy của tự nhiên, của lịch sử, của thời gian, dòng chảy ấy không xoá đi mà mãi mãi lưu lại âm vang của hào khí Đông A, cũng như lưu lại vết nhục của quân thù và niềm tự hào của mỗi người dân chúng ta.
Xuyên suốt qua hai tác phẩm Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão và Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu là một tinh thần quật khởi, một tình yêu đất nước mãnh liệt, một lòng căm thù giặc sâu sắc và một niềm kiêu hãnh tự hào dân tộc nức lòng người. Nhưng nói như vậy không có nghĩa dân tộc ta ưu thích chiến tranh, thích đổ máu, mà ngược lại, hơn bao giờ hết, hào khí Đông A được xây dựng trên nền tảng nhân nghĩa của cha ông ta:
Giặc tan muôn thuở thanh bình
Bởi đầu đất hiểm cốt mình đức cao
Hoàng sóc giang sơn cáp kỉ thâu
Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu.
Chính cái tư thế Hoành sóc vừa vững chãi vừa uy nghi ấy cũng nói lên thế cắp ngang ngọn giáo đứng hiên ngang đẹp đẽ của dân tộc ta bởi vì chúng ta chiến đấu là để bảo vệ non sông gấm vóc, bảo vệ hoà bình.
Có cắt nghĩa như vậy ta mới lí giải được vì sao hào khí Đông A lại có một sức sống lâu bền như vậy, và mới hiểu tại sao mà Nguyễn Trãi, Lê Lợi sau này lại làm nên những chiến công cũng hiển hách như vậy. Hào khí Đông A sống mãi trong lịch sử, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Hơn một trăm năm sau sự ra đời của Bạch Đằng giang phú hào khí ấy vẫn vọng lên trong bài thơ Qua cửa Hàm Tử của Trần Lâu:
Trống chiêng rung động, sông dồn sóng
Cờ quạt tung bay, trúc rẽ nhàng
Cổ chinh hùng dũng trào cao thấp
Kì bái sân sỉ trúc ảnh tà.
Và dù ở bài thơ nào, Thuật hoài, Bạch Đằng giang phú hay Qua cửa Hàm Tử thì hào khí Đông A vẫn được bày tỏ một cách hết sức tự nhiên, bởi nó đã thấm vào máu thịt của từng người dân đất Việt, nó là tâm huyết, là dòng máu nóng sục sôi trong từng huyết quản những người dân đã khắc hai chữ Sát Thát vào cánh tay mình trong cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên Mông thế kỉ XIII.
Và bây giờ, khi đọc lại hai tác phẩm Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão và Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu, ta như thấy được cả một rừng cánh tay vung lên, cánh tay nào cũng chích hai chữ Sát Thát đỏ thắm như máu, ta thấy lại được cái hùng khí của cả một thế hệ anh hùng, một thời đại anh hùng. Trong công cuộc dựng xây đất nước hôm nay, dân tộc như được tiếp thêm sức mạnh bởi hào khí Đông A thủa trước.