A. DÀN BÀI
1. Mở bài
Văn xuôi giai đoạn kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954) thực sự là một quá trình thí nghiệm, kiếm tìm sự phù hợp giữa nghệ thuật và cuộc sống. Thời gian ngắn, số lượng tác phẩm còn lại đến hôm nay không nhiều, nhất là ở hai thể loại tiểu thuyết và truyện ngắn. Chúng ta đặc biệt trân trọng những tác phẩm tinh túy của chặng đường văn học đặc biệt này, trong đó có truyện ngắn xuất sắc Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài.
2. Thân bài
a. Giá trị hiện thực
Qua hai nhân vật Mị và A Phủ, tác phẩm đã:
* Phản ánh số phận bi thảm của người dân miền núi
+ Mị tiêu biểu cho số phận của người phụ nữ Tây Bắc:
- Trẻ đẹp, có tài, vì nghèo nên đã trở thành con dâu gạt nợ cho thống lí Pá Tra - một thứ nô lệ không công của bọn nhà giàu.
- Dưới sức mạnh của cường quyền, thần quyền, họ bị đọa đày về thể xác và tinh thần, trở thành những người cam phận.
+ A Phủ cũng có số phận tương tự như Mị, tiêu biểu cho người dân nghèo ở miền núi:
- Chỉ vì hành động tự vệ chính đáng mà A Phủ bị hành hạ, trở thành đứa ở trừ nợ cho thống lí Pá Tra.
- Bị bóc lột sức lao động, bị hành hạ.
- Bị áp bức đến mức tê liệt về tinh thần: Từ một người không chịu khuất phục trở thành kẻ cam chịu.
-> Họ là nạn nhân của cường quyền và thần quyền.
* Tố cáo chế độ phong kiến miền núi:
+ Sự độc ác, tàn bạo:
- Cho vay nặng lãi.
- Trói buộc người dân bằng sự mê tín.
- Tra tấn con người dã man kiểu trung cổ.
+ Sự bất công, vô lí:
- Lần xử kiện A Phủ.
- Hình phạt khi A Phủ làm mất bò.
c. Phản ánh những quy luật của xã hội
+ Cái nhìn biện chứng về quan hệ giữa hoàn cảnh và tính cách:
- Bị đày ải lâu ngày trong thế giới không có nhân tính, cả Mị và A Phủ đều trở thành những con người an phận, thậm chí vô cảm.
- Nhưng tác phẩm cũng cho thấy khi bị ức hiếp, bị đẩy đến đường cùng, người lương thiện sẽ vùng dậy tự giải phóng mình; tình người sẽ tạo nên sức mạnh đế họ tự giải thoát.
- Điểm mới mẻ của Tô Hoài là đã nắm bắt và miêu tả hiện thực trong xu thế cách mạng.
-> Con đường đấu tranh từ tự phát đến tự giác chống thực dân phong kiến dưới sự dìu dắt của cán bộ Đảng là con đường tất yếu để nhân dân miền núi thoát khỏi ách nô lệ, vươn lên cuộc sống độc lập tự do.
b. Giá trị nhân đạo
* Tô Hoài có cái nhìn nhân văn về thiên nhiên và con người Tây Bắc
Rừng núi và con người dân tộc thiểu số trong ấn tượng của mọi người là rừng thiêng nước độc, cuộc sống tối tăm, ngu muội. Nhưng trong con mắt nhà văn, đó là miền đất thơ mộng, hùng vĩ với mùa xuân đẹp, gợi cảm; con người Tây Bắc đẹp về nhiều phương diện, từ ngoại hình đến tâm hồn và năng lực lao động.
* Lòng thương cảm của nhà văn với người dân miền núi
- Dựng lại nỗi đau khổ, tủi nhục của Mị và A Phủ, ở những đoạn độc thoại của nhân vật ta có cảm tưởng nhà văn đang nhập vào tâm trạng của nhân vật để nói lên nỗi lòng vừa đau đớn vừa thiết tha của họ.
- Lên án gay gắt những thế lực chà đạp lên quyền sống của con người.
Do đó, Vợ chồng A Phủ là bài ca ca ngợi con người nhưng đồng thời cùng là bản án đanh thép kết tội những ai lợi dụng cường quyền, thần quyền, lợi dụng hủ tục mê tín... để biến con người thành nô lệ.
* Đề cao con người
+ Trong tác phẩm, Tô Hoài thể hiện cái nhìn trân trọng đối với con người. Nhà văn khắc họa sức sống bên trong của những con người thấp cổ, bé họng và đặt trọn niềm tin vào đó.
+ Đi sâu vào tận cùng ý thức của nhân vật, tác giả phát hiện niềm khao khát sống của họ; Nhà văn đã khiến chúng ta thêm tin yêu vào bản chất tốt đẹp của con người.
* Tìm đường đi cho nhân vật
Điểm mới mẻ và sâu sắc của tư tưởng nhân đạo ở Vợ chồng A Phủ là tác giả đã để nhân vật tìm ra con đường giải phóng thực sự, thể hiện ước mong chân chính của mình trong quá trình đến với cách mạng.
B. BÀI LÀM
Văn xuôi giai đoạn kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954) thực sự là một quá trình thí nghiệm, kiếm tìm sự phù hợp giữa nghệ thuật và cuộc sống. Thời gian ngắn, số lượng tác phẩm còn lại đến hôm nay không nhiều, nhất là ở hai thể loại tiểu thuyết và truyện ngắn. Chúng ta đặc biệt trân trọng những tác phẩm tinh túy của chặng đường văn học đặc biệt này, trong đó có truyện ngắn xuất sắc Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài.
Vợ chồng A Phủ vừa là thành tựu tương đối hiếm hoi của văn xuôi kháng chiến, vừa ghi dấu sự trưởng thành của ngòi bút Tô Hoài trong sự chiếm lĩnh mảng đề tài miền núi, một đề tài tới nay vẫn còn nhiều mới lạ với bạn đọc. Truyện được tổ chức chặt chẽ, dẫn dắt rất dung dị, tự nhiên, không cần chạy theo những chi tiết li kì rùng rợn mà vẫn có sức hút mạnh mẽ. Có được điều đó chính là nhờ cái nhìn hiện thực sắc bén và chủ nghĩa nhân đạo tích cực của nhà văn. Sự thể hiện cuộc đời hai nhân vật trung tâm từ bóng tối đau khổ, ô nhục vươn ra ánh sáng của tự do và nhân phẩm đã chứng minh rất rõ điều đó.
Cô Mị xinh đẹp, chăm làm nhưng nghèo khổ, có thể nói “khổ từ trong trứng”. Bố mẹ nghèo, cưới nhau không có tiền phải vay nợ nhà thống lí. Nợ chưa trả hết, người mẹ đã qua đời. Bố già yếu quá, món nợ truyền sang Mị, thống lí Pá Tra muốn Mị làm con dâu “gạt nợ”. Mà quan trên đã muốn, kẻ dưới làm sao thoát được! Pá Tra xảo quyệt, lợi dụng tục lệ của người Mèo, cho cướp Mị về. Thế là không có cưới hỏi, không cần tình yêu mà vẫn hoàn toàn hợp lẽ. Có ai dám bênh vực Mị! Ngòi bút hiện thực tỉnh táo của Tô Hoài đã phanh trần bản chất bóc lột giai cấp ẩn sau những phong tục tập quán. Cô Mị, tiếng là con dâu nhưng thực sự là một nô lệ, thứ nô lệ người ta không phải mua mà lại được tha hồ bóc lột, hành hạ. Mị ở nhà chồng như ở giữa địa ngục. Không có tình thương, không sự chia sẻ vợ chồng; chỉ có những ông chủ độc ác, thô bạo và những nô lệ âm thầm, tăm tối. Dần dần rồi Mị cũng quên luôn mình là con người nữa. Suốt ngày “Mị lầm lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”, lúc nào cũng cúi mặt, thế giới của Mị thu hẹp trong một cái ô cửa sổ “mờ mờ trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. Kết quả của hoàn cảnh sống thật chua xót: “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen rồi”, cô nhẫn nhục, cam chịu đến thành tê liệt ý thức: “Là con ngựa phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến ở tàu ngựa nhà khác, con ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”. Ai có thể ngờ cô gái trẻ trung, yêu đời ngày nào thổi sáo hồi hộp chờ đợi người yêu, đã từng hái lá ngón định ăn để khỏi chịu nhục, giờ đây lại chai lì, u mê đến thế. Quả thật hoàn cảnh quyết định tính cách. Nguyên tắc biện chứng của chủ nghĩa hiện thực đã được nhà văn tuân thủ nghiêm ngặt. Sự yếu đuối của kẻ nô lệ, sự vùi dập tàn bạo của bọn bóc lột tất sẽ dẫn đến cảnh ngộ bi đát ấy. Nỗi khổ nhục của cô gái Mèo này thật đã có thể so sánh với nỗi nhục của Chí Phèo khi “Đánh mất cả nhân tính lẫn nhân hình”. (Thật ra, Chí Phèo còn có lúc nghênh ngang, còn dọa nạt được người khác). Nếu xem xét giá trị hiện thực của một tác phẩm như là sự phản ánh chân thật cuộc sống, thì Vợ chồng A Phủ quả là bản cáo trạng hùng hồn về nỗi thống khố của người phụ nữ miền núi, vừa chịu gánh nặng của chế độ phong kiến, vừa bị trói chặt trong xiềng xích của thần quyền. Tâm lí nơm nớp sợ “Con ma nhà thống lí” đã nhận mặt mình từ buổi bị bắt về “cúng trình ma” là một ám ảnh ghê gớm đè nặng suốt cuộc đời Mị (ngay cả đến khi cô đã trôn thoát khỏi Hồng Ngài). Xem thế đủ thấy bọn thông trị cao tay đến nhường nào trong nghệ thuật “ngu dân” để dễ trị.
Có thể nói, nhà văn đã không hà tiện cung cấp cho người đọc những chi tiết có giá trị bóc trần bản chất xã hội vô nhân đạo, ở đó thân phận người dân nghèo mới mong manh bất ổn làm sao! Ta sững sờ trước cảnh cô Mị lặng lẽ ngồi lầm lũi trong những đêm đông buốt giá, thằng chồng thì đi chơi về khuya ngứa tay đánh Mị ngã dúi xuống đất. Lại còn có cái hình ảnh nhức nhối phũ phàng: người con gái bị trói đứng vào cột trong buồng tối, bị trói chỉ vì muôn đi chơi tết như bạn bè. Sự bất lực của Mị tràn theo dòng nước mắt chua chát trên má môi mà không có cách gì lau đi được.
Những chi tiết như vậy làm sinh động cho bức tranh hiện thực. Sự xuất hiện của nhân vật chính A Phủ tạo thêm tình huống để hoàn chỉnh bức tranh đó. Cuộc đời nô lệ của A Phủ thật ra là sự lặp lại với ít nhiều biến thái chính cuộc đời Mị. Lí do mà thông lí Pá Tra buộc A Phủ phải thành người ở không công không phải vì cuộc ẩu đả thường tình của đám trai làng. Vấn đề là ở chỗ pháp luật trong tay ai? Khi kẻ làm đơn kiện cũng đồng thời là kẻ ngồi ghế quan tòa thì còn nói gì tới công lí nữa! Vậy nên mới có cảnh xử kiện quái gở nhất trên đời mà chúng ta được chứng kiến tại nhà thống lí. Kết quả là người con trai khỏe mạnh phóng khoáng phải đem cuộc đời mình trả nợ nhà quan.
Cảnh ngộ của hai nhân vật Mị và A Phủ ít nhiều gợi đến những Chí Phèo, chị Dậu, chú AQ và thím Tường Lâm.. Đó là những hình tượng nghệ thuật được cô đúc từ chính cuộc đời đau khổ trong xã hội cũ.
Nhưng nếu nói đến giá trị hiện thực của tác phẩm Vợ chồng Phủ mà chỉ phân tích ở khía cạnh phơi bày, tố cáo, phê phán thông qua những cảnh ngộ bi thảm của người dân lao động thì chưa đủ. Nhiều tác phẩm hiện thực phê phán xuất sắc vẫn được xem như có hạn chế trong tầm nhìn và bởi thế, giá trị hiện thực sẽ không được toàn vẹn. Tô Hoài trong khi đào sâu vào hiện thực đã phát hiện ra con đường tất yếu mà các nhân vật của ông sẽ đi. Sự đè nén quá nặng nề, những đau khổ chồng chất mà bọn thống trị gây ra tất sẽ dồn những kẻ khốn cùng ấy tới sự chống trả và nếu gặp được ánh sáng soi đường, họ sẽ giành được thắng lợi (Tô Hoài có cái may mắn là viết Vợ chồng A Phủ sau Cách mạng tháng Tám).
Tô Hoài đã chỉ ra sự hợp lí của quá trình biến Mị thành người lầm lũi. Mị làm việc nhiều quá, bị đày đọa khổ ải quá, mãi rồi Mị phải “quen”, phải cam chịu. Lúc trước Mị không được quyền tự tử vì sợ liên luỵ tới bố; giờ bố chết, nhưng Mị không còn muốn tự tử nừa. Mị như một cái máy, không có ý thức, không cảm xúc, ước ao. Liệu cô có thể thức tỉnh được nữa không? Nhà văn trả lời: Có. Nếu đã có một hoàn cảnh làm tê liệt tâm hồn con người thì cũng sẽ có một hoàn cảnh đánh thức được nó.
Hoàn cảnh nào đây? Phép màu nào đây? Kỳ diệu thay và cũng đơn giản thay, đó là tiếng sáo Mị tình cờ nghe được giữa một ngày mùa xuân đầy hương sắc. Tất cả chợt sống dậy, Mị thấy lòng “thiết tha bồi hồi” và lập tức nhớ lại cả quãng đời thiếu nữ tươi đẹp. Có gì lạ đâu nhỉ? Thanh niên Mèo ai chả yêu tiếng sáo, mà Mị lại là cô gái thổi sáo giỏi. Hơn nữa, tiếng sáo đang bay bổng kia lại nhắc đến tình yêu, “gọi bạn yêu”, nó làm thức dậy trong lòng cô khát vọng tình yêu thương và hạnh phúc. Như vậy, tiếng sáo đã đánh thức tâm hồn Mị, Mị nhớ lại rằng “mình vẫn còn trẻ lắm”, rằng “bao nhiêu người có chồng vẫn đi chơi xuân”. Tâm hồn được đánh thức ấy biểu hiện ra bên ngoài bằng hành động rất lạ: “Mị lén lấy hũ rượu cứ uống ừng ực từng bát. Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đấy”. Có ngọn lửa nào đang cần phải khơi lên hay cần phải dập tắt đi bằng hơi men vậy? Chỉ biết rằng cô gái đã quyết thay váy áo đi chơi, điều mà bao năm rồi cô không nhớ đến. Có thể coi đây là một bước đột biến tâm lí nhưng là kết quả hợp lí toàn bộ quá trình tác động qua lại giữa hoàn cảnh với tính cách nhân vật. Sự “vượt rào” của Mị tuy bị đàn áp ngay (A Sử đã tắt đèn, trói đứng cô vào cột); nhưng ý thức về quyền sống, khát vọng về hạnh phúc đã trở lại.
Mị lại biết khóc, lại muốn tự tử. Và những giọt nước mắt trong cái ngày tàn nhẫn này sẽ lưư giữ trong lòng Mị như một vết bỏng rát để đến khi bắt gặp những dòng nước mắt chảy “lấp lánh” trên gò má hốc hác của A Phủ, nó đã biến thành sự đồng cảm sâu sắc giữa những người cùng khổ.
Toàn bộ ý thức phản kháng của Mị hiện hình qua một câu hỏi sáng rõ: “Người kia việc gì phải chết?”. Mị quyết định trong khoảnh khắc: cắt dây trói giải thoát cho A Phủ. Và tất nhiên, Mị cũng bỏ trốn, tự giải thoát chính mình. Hai kẻ trốn chạy chịu ơn nhau, cảm thông nhau, dựa vào nhau để tạo lập hạnh phúc. Thế nhưng cái đồn Tây lù lù xuất hiện và lại có cha con thống lí Pá Tra về ở trong đồn, thì họ thật sự bị dồn đến chân tường. Trước mặt họ, chỉ còn sự lựa chọn cuối cùng: trở lại kiếp nô lệ hay chống kẻ thù.
Chắc chắn họ thà chết còn hơn lại sống như cũ. Nhưng muốn chống kẻ thù, họ trông cậy vào ai? Cách mạng đã đến với họ đúng giây phút ấy. Mị và A Phủ đi theo cách mạng, sẽ thủy chung với cách mạng như một lẽ tất yếu!
Bằng sự am hiểu cuộc sống và khả năng phân tích vấn đề sắc bén, nhất là bằng ngòi bút miêu tả tâm lí tinh tế, Tô Hoài đã tái hiện chân thật và sinh động cuộc hành trình từ đau khổ, tối tăm ra phía ánh sáng cách mạng của những người dân lao động dưới ách phong kiến và thực dân. Tác phẩm đem lại cho bạn đọc nhận thức đúng đắn về con đường cách mạng dân tộc dân chủ ở nước ta. Ngoài ra, giá trị hiện thực của truyện còn được gia tăng bằng màu sắc địa phương rất đậm nét với cảnh sắc, phong tục, sinh hoạt của người Mèo, bằng bản sắc tâm hồn độc đáo của các nhân vật. Cùng một số phận, một cảnh ngộ, nhưng diễn biến tâm lí của Mị rất khác A Phủ. A Phủ mạnh mẽ, bộc trực, dứt khoát. MỊ dường như chín chắn hơn nhưng lại yếu đuối hơn.
Bất cứ tác phẩm văn học nào cũng chứa đựng thái độ của nhà văn đối với cuộc sống, trước hết là với con người. Ngay giá trị hiện thực của Vợ chồng A Phủ đã để lộ cái nhìn nhân đạo, ưu ái của Tô Hoài. Xây dựng hai nhân vật Mị và A Phủ với thân phận nô lệ là tác giả muốn làm một bản cáo trạng về xã hội cũ, đồng thời gợi lên trong người đọc lòng căm phẫn xã hội đó, sự đau xót, sự cảm thông cho những kiếp người sống trong xã hội đó.
Thật ra cũng khó tách bạch đâu là giá trị hiện thực, đâu là giá trị nhân đạo ở một tác phẩm như Vợ chồng A Phủ. Hiện thực và nhân đạo nhiều khi hòa trộn với nhau. Thật khó quên hình ảnh cô Mị lần tìm về quỳ lạy trước mặt bố mà khóc nức nở. Đứa con chưa kịp nói gì người cha đã biết: “Mày về quỳ lạy tao để mày chết đấy à? Không được đâu con ơi”. Mị ném nắm lá ngón xuống đất, qụay trở lại chốn địa ngục trần gian. Phải, cô gái ấy vốn có một nhân cách đáng trọng. Cô thà chết để khỏi sống khổ nhục, nhưng lại phải chấp nhận sống khổ nhục hơn là phải bất hiếu với cha. Chính Mị, khi còn trẻ đã biết xin bố: “Con nay đã lớn rồi, con sẽ thay bố làm nương trả nợ. Bố đừng bán con cho nhà giàu”. Đó là con người biết yêu quý tự do, biết khẳng định quyền sống. Ngay cả lúc bị hoàn cảnh vùi dập đến mê mụ, trong tro tàn của lòng cô vẫn âm ỉ đốm than hồng của niềm ham sống, khao khát thương yêu. Nếu nhà văn chỉ tuân theo một thứ hiện thực khách quan, lạnh lùng thì làm sao ông có thể đón đợi và nắm bắt tài tình giây phút sống lại bất ngờ và mãnh liệt đến thế của cô gái. Không, trước sau ông vẫn tin rằng hoàn cảnh dẫu có khắc nghiệt đến mẩy, cũng không thể tiêu diệt hoàn toàn sức sống của con người. Mị đã sống lại bằng tuổi trẻ, bằng nỗi day dứt về thân phận của mình. Chính cái khát vọng sống mãnh liệt không thể chết được ở Mị, làm cho Mị đồng cảm với cảnh ngộ của A Phủ và đi đến quyết định giải thoát cho A Phủ, đồng thời giúp Mị tự giải thoát khỏi cái chốn địa ngục để làm lại cuộc đời, để sống như một con người.
Tô Hoài đã trân trọng từng bước trưởng thành của Mị và A phủ. Cái nhìn của ông về hai nhân vật này là một cái nhìn nhân đạo. Ông cảm thông nỗi đau của Mị và A Phủ, mặt khác ông trân trọng ý thức nhân phẩm, khát vọng giải phóng và tin ở khả năng tự làm chủ trước cuộc đời của hai con người đau khổ này. Phải chăng, chính cái nhìn đó đã tạo nên giá trị của tác phẩm.