Đang chuẩn bị nút TẢI XUỐNG, xin hãy chờ
Tải xuống
Tiến hóa ( phần 10 ) Sự hình thành đặc điểm thích nghi kiểu gen Sự hình thành đặc điểm thích nghi kiểu gen là một quá trình lịch sử, chịu sự chi phối của ít nhất là 3 nhân tố chủ yếu: Quá trình đột biến, quá trình giao phối, quá trình chọn lọc tự nhiên. | Tiến hóa phần 10 Sự hình thành đăc điểm thích nghi kiểu gen Sự hình thành đặc điểm thích nghi kiểu gen là một quá trình lịch sử chịu sự chi phối của ít nhất là 3 nhân tố chủ yếu Quá trình đột biến quá trình giao phối quá trình chọn lọc tự nhiên. Ví dụ sự hoá đen ở các loài bướm ở vùng công nghiệp Năm 1848 ở gần vùng Mansextơ Anh người ta phát hiện được một cá thể màu đen thuộc loài bướm sâu do bạch dương Biston Betularia. Đến năm 1900 ở nhiều vùng công nghiệp miền Nam nước Anh tỷ lệ các cá thể màu đen trong quần thể đã tăng tới 85 và đến những năm 50 của thế kỷ này tỷ lệ bướm màu đen tăng lên tới 98 . Hiện tượng hoá đen của loài bướm này liên quan với bụi than ở các trung tâm công nghiệp. Bụi than đen từ ống khói các nhà máy bay ra đã bám vào thân cây vào các lớp rêu địa y trên vỏ cây là nơi bướm thường đậu ban ngày. Trên nền đen của thân cây màu đen tỏ ra có lợi cho bướm vì các chim ăn sâu bọ khó phát hiện. Số cá thể màu đen được sống sót nhiều hơn và con cháu của chúng ngày càng đông. Trái lại ở vùng nông thôn thì tỷ lệ dạng trắng cao hơn dạng đen. Harixơn 1928 cho rằng nguyên nhân trực tiếp là các chất Zn Mn trong khói than lẫn vào thức ăn của sâu bướm. Nhưng Tômxơn 1933 làm thí nghiệm Cho sâu bướm ăn thức ăn có lẫn lộn Zn Mn đã cho biết là trong nhiều trường hợp không thấy xuất hiện dạng màu đen mặt khác dạng bướm đen xuất hiện ở cả nơi không có bụi than. Về sau Gonsmit 1936 Kettơnoen 1956 xác định Biston Betularia có 3 dạng màu sắc dạng nguyên thuỷ có màu trắng đốm đen dạng đột biến màu xám sẫm dạng đột biến màu đen. Khi lai từng cặp trong 3 dạng này thì thấy màu đen trội hơn màu xám màu xám trội hơn màu trắng. Người ta đã xác định đột biết trội C. Dạng đen có kiểu gen CC hoặc Cc dạng trắng có kiểu gen các. Mặc dù dạng đen được phát hiện lần đầu tiên năm 1848 nhưng đến năm 1898 tần số tương đối của Alen C đã tăng tới 99 qua 50 thế hệ. Đó là do alen C có giá trị thích nghi cao hơn c Ford 1964 . Có hiện tượng là ở vùng không có bụi than thì dạng trắng có sức .