Đang chuẩn bị nút TẢI XUỐNG, xin hãy chờ
Tải xuống
Hạt nhân phóng xạ được xác định về mặt định tính và định lượng bằng cách dựa trên sự tương tác bức xạ phát ra với vật chất dùng bởi detector bức xạ. Một hệ thống đo hoạt độ phóng xạ thông thường bao gồm 2 phần: detector bức xạ và thiết bị xử lý tín hiệu và chỉ thị kết quả đo. | Chất bán dẫn có một số thuận lợi so với detector khí, hai đặc tính quan trọng là sự lớn hơn về số lượng các cặp electron–lỗ trống được tạo ra trong chất rắn so với số cặp electron-ion được tạo ra trong chất khí và có mật độ cao hơn so với chất rắn. Cả hai điều thuận lợi này dẫn đến khả năng phân giải cao trong việc đo năng lượng của các hạt tới. Tuy nhiên, sự tập hợp các điện tích được giải phóng trong chất rắn khó xảy ra hơn trong chất khí. Ngoài việc mất electron và các lỗ trống bởi sự tái hợp, những tạp chất và những chỗ khuyết trong tinh thể làm trung tâm cho việc nhốt các điện tích tự do trước khi tập hợp chúng bởi điện trường. Hơn nữa, việc sử dụng một điện trường cho việc tích điện đòi hỏi detector phải là một vật cách điện (nghĩa là với một điện trở suất rất cao); mặt khác, việc tạo ra dòng điện cao sẽ không chỉ dẫn đến sự nhiễu tín hiệu điện quá mức nhưng những dao động trong dòng điện có thể lớn hơn những xung điện nhỏ của những cặp điện tích electron-lỗ trống. Như vậy, điều quan trọng trong việc sử dụng các chất bán dẫn như là các detector ghi nhận bức xạ là áp dụng một điện trường cao không có những dòng điện rò rỉ quá mức. Một số phương pháp đã được sử dụng để đạt được trạng thái này cho tinh thể bán dẫn; ba loại detector quan trọng là detector chuyển tiếp n-p, detector có rào chắn bề mặt và detector trôi ion Lithium.