Đang chuẩn bị nút TẢI XUỐNG, xin hãy chờ
Tải xuống
Dân số Việt Nam và công tác kế hoạch hóa phát triển dân số, đẩy mạnh cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch và quy hoạch mức hợp lý số dân Việt Nam trong vòng 30-50 năm tới, thay đổi cơ cấu dân số lao động phù hợp với thực trạng nền kinh tế và yêu cầu công nghiệp hóa xã hội học chủ nghĩa là những nội dung chính trong bài viết "Dân số và kế hoạch hóa kinh tế quốc dân". . | Xã hội học số 4 - 1985 DÂN SỐ VÀ KẾ HOẠCH HÓA KINH TẾ QUỐC DÂN NGUYỄN VĂN LẠNG Ủy ban Kế hoạch Nhà nước 1. Dân số Việt Nam và công tác kế hoạch hóa phát triển dân số. Nước ta mới ra khỏi cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc lâu dài đang ở chặn đường đầu tiên của quá trình công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa nhiều vấn đề gay gắt liên quan tới dân số đặt ra cho nền kinh tế phải giải quyết như vấn đề ăn mặc ở đi lại học tập và việc làm cho lực lượng lao động xã hội. Một trong những nguyên nhân tác động không nhỏ đến tình hình khó khăn hiện nay của nền kinh tế là vấn đề dân số chưa được kế hoạch hóa tốt. Tỷ lệ tăng dân số ở nước ta hàng năm còn quá cao. Trong năm 1976 - 1980 dân số nước ta tăng 5 1 triệu người tỷ lệ tăng bình quân hàng năm là 2 6 . Gần đây vấn đề kế hoạch hôm dân số được coi trọng hơn nhiều ngành nhiều cấp quan tâm hơn nhưng đến năm 1984 tỷ lệ tăng dân số vẫn là 2 2 hàng năm vẫn tăng tuyệt đối 1 3 triệu người đã trừ số chết. Dù sản lượng lương thực tăng nhanh nhưng với tốc độ tăng dân số như vậy nên mức bình quân lương thực đầu người hiện tay vẫn chưa vượt qua nổi mức yêu cầu thấp nhất là 300 kg người. Trong khi ấy thì một số sản phẩm công nghiệp tính bình quân đầu người ở nước ta đã thấp trong mấy năm vừa qua lại không ổn định. Sản lượng than bình quân đầu người chưa bằng năm 1976. Sản lượng điện mặc dù năm 1984 đã có rất nhiều cố gắng so với năm 1976 đã tăng từ 63 kW giờ năm 1976 lên 80 kWh năm 1984 nhưng do dân số tăng nhanh vẫn chưa đáp ứng được cho nhu cầu tiêu dùng của người dân. Với tốc độ tăng dân số như hiện nay mỗi năm tăng bằng số dân của một tỉnh có 1 3 triệu dân đến năm 2000 dân số nước ta sẽ vọt lên gần 100 triệu người. Yêu cầu lương thực lớn nhất vào ở thời điểm đó bảo đảm 500kg người thì sản lượng lương thực phải dạt 50 triệu tấn tăng gấp hai ba lần hiện nay. Đó là chưa kể hàng vạn mặt hàng khác phải tăng lên để phục vụ đời sống. Đến nay với gần 59 triệu người dân số nước ta đã nhảy lên đứng hàng thứ 11 trong số hơn 150 nước trên thế giới .