Vi hành là một trong những truyện ngắn hay nhất của Nguyễn Ái Quốc ra đời vào những năm 20 cùa thế kỷ này. Tác phẩm được viết bằng tiếng Pháp, đăng trên báo Nhân đạo của Đảng Cộng sản pháp, số ra ngày 19-2-1923. Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 - 1918), đế quốc Pháp tuy là nước thắng trận nhưng kinh tế kiệt quệ, phải đối phó với phong trào giải phóng dân tộc ở thuộc địa. Trong tình thế đó, chúng một mặt tăng cường vơ vét các thuộc địa, mặt khác lại phải tuyên truyền, lừa bịp về "sự thịnh vượng" và "tình hình ổn định" của những nước chúng "bảo hộ" và "khai hoá". Để thực hiện âm mưu ấy, thực dân Pháp bày ra cuộc "đấu xảo" thuộc địa ở Macxây vào giữa năm 1922 và đưa Khải Định sang với tư cách là quốc vương An Nam. Cuộc "Pháp du" của tên vua bù nhìn này là một trò quảng cáo cho chủ nghĩa thực dân (tỏ thái độ thần phục "mẫu quốc", cảm ơn công khai hoá của "mẫu quốc", cầu xin "mẫu quốc" tiếp tục dìu dắt trên con đường văn minh, tiến bộ) đã bị những người yêu nước Việt Nam lên án mạnh mẽ. Nguyễn Ái Quốc viết Vi hành (cùng với một loạt tác phẩm khác như kịch Con rồng tre, tiểu phẩm Sở thích đặc biệt, truyện ngắn Lời than vãn của bà Trưng Trắc ...) để lột tẩy con bài chính trị "Khải Định" của thực dân Pháp. Tác phẩm viết bằng tiếng Pháp, xuất, bản ở Pari, tất nhiên đối tượng là người Pháp, sau đó là công chúng biết tiếng Pháp ở các thuộc địa. Mục đích và đối tượng ấy quyết định nội dung và hình thức nghệ thuật của tác phẩm Vi hành.
Tinh huống truyện và nhân vật truyện Sáng tạo tình huống, đó là khâu then chốt của nghệ thuật truyện ngắn. Trong truyện Vi hành, Nguyễn Ái Quốc đã tạo ra một tình huống thật oái oăm vừa vui, vừa gây được hiệu quả châm biếm sâu cay. Đó là tình huống nhầm lẫn: đôi trai gái người Pháp trên toa tàu điện ngầm đã nhầm lẫn nhân vật người dẫn truyện (xưng tôi) với Khải Định. Sụ nhầm lẫn tuy có dụng ý, nhưng không phài là không thể xảy ra. Đối với người phương Tây thật khó phân biệt được những bộ mặt khác nhau của người da vàng "vẫn cái mũi tẹt ấy, vẫn đôi mắt xếch ấy, vẫn cái mặt bủng như vỏ chanh ấy, cò gì khác đâu (cũng như người Việt Nam nhìn người phương Tây, thấy ai cũng mũi lõ, mắt xanh, da trắng như nhau cà). Tình huống ấy có tác dụng nghệ thuật gì? Nó tạo điều kiện để nhân vật tôi có thể nghe lỏm được cuộc trò chuyên thầm kín và tinh quái của đôi trai gái Pháp về Khải Định, dẫn đến một điều thú vị là Khải Định không xuất hiện trong tác phẩm mà lại được dựng lên hết sức cụ thể và ngộ nghĩnh. Cách lố bịch hoá tên vua bù nhìn như thế lại giữ được tính khách quan rất cần thiết đối với độc giả người Pháp: không phải Nguyễn Ái Quốc, một người cộng sản mạt sát Khải Định như một kẻ thù giai cấp. Đây là người dân Pháp nghĩ như thế về Khải Định đấy chứ... Mà trong con mắt người Pháp thì Khải Định mới kỉ quái một cách hài hước đến thế: cái nón của vua An Nam thành cái chụp đèn, y phục và đồ trang sức của vị hoàng đế là những lụa là đeo trên người cùng với những bộ hạt cườm... Tóm lại, qua cuộc trò chuyện củạ đôi tình nhân Pháp, người đọc hình dung được tên vua bù nhìn, khi ở trường đua, khi "vi hành" trong tàu điện ngầm, là một gã An Nam mũi tẹt, mặt bủng, đội chụp đèn lên đầu, đeo rất nhiều lụa là và hạt cườm, vẻ nhút nhát, lén lút, lúng ta lúng túng... Họ đặt câu hỏi: Hắn đến đây làm gì trên tàu điện ngầm, không ăn mặc diêm dúa, không có tuỳ tùng hộ giá? và tự trà lời: “Thế hay là hắn dem tất cả các thứ dó đến tiệm cầm đồ rồi?”
“- Có khi đã gửi tuốt ở kho hành lý nha ga, để đi vi hành đây!" Các cụ ngày xưa thường nói đến thủ pháp nghệ thuật "vẽ mây nẩy trăng". Trong trường hợp Vi hành, Khải Định không rõ mặt mà chân dung hắn lại được tô đậm đến từng chi tiết: một hộ dạng ngớ ngẩn, kì quái, lố bịch, một gà ãn tiêu bừa bãi, chơi bời lén lút không ra thể thống gì cả. Và cái giá của vị vương quốc An Nam mới thảm hại làm sao: người dân Pari coi y chỉ là một mục giải trí rẻ tiền, thậm chí không tốn một xu - khòng như xem hề Saclô, xem vợ lẽ nàng hầu vua Cao Miên hay trò leo trèo nhào lộn của sư thánh xứ công gô...
Nghệ thuật trần thuật. Nói về nghệ thuật trần thuật của Vi hành, nên chú ý đặc điểm này: tác già dùng hình thức một lá thư gửi cô em gái họ ở quê nhà (dịch ra tiếng Pháp). Viết truyện dưới hình thức viết thư, thực ra khỏng có gì mới mẻ, độc đáo cà. Vấn đề là tác giả sử dụng hình thức này có thích hợp không và đạt hiêu quả nghệ thuật ra sao. Thư riêng gửi người thân - không phải thư công vụ - là một lối văn hết sức vô tư, phóng túng. Người viết cò thế từ chuyện nọ xọ chuyện kia, chuyển cảnh, đổi giọng thoải mái. Trong một bức thư người ta có thể thông tin, nhắn tin đủ loại, có thể trao đổi tâm sự thầm kín nhất cũng như những suy nghĩ riêng tư nhất. Chuyển cảnh, chuyển giọng linh hoạt: nhờ hình thức viết thư, tác giả có thể dang từ giọng trần thuật khách quan (tường thuật cuộc trò chuyện của đôi trai gái Pháp) chuyển ngay sang giọng trữ tĩnh thân mật khi tâm sự với cô em họ. Có thể tìm thấy trong Vi hành nhiều giọng điệu khác nhau, khi nghiêm trang, khi cười cợt, khi vui tươi nhí nhảnh, khi buồn nhớ mênh mông, khi lạnh lùng sắc sảo... Tuy nhiên, bao trùm lên tất cả vẫn là giọng mỉa mai châm biếm, bề ngoài nhiều khi có vẻ nhẹ nhàng và vui nữa, nhưng thực ra đều là những đòn đả kích sâu cay mãnh liệt:
Hắn đấy!
Đâu phải!
Đúng mà! Anh đã bảo là chính hắn đấy!
Chắc thật à? Em thì em đã thấy hắn ở trường đua, trông hắn có vẻ nhút nhát hơn, lúng ta lúng túng hơn cơ, có cả cái chup đèn chụp lên cái đầu quấn khăn, các ngón tay thì đeo đầy những nhẫn".
Thế hay là hắn đã đem tất cả các thứ đó đến hiệu cầm đồ rồi? Nhưng mà nhìn kĩ mà xem kìa! Chẳng phải vẫn cái mũi tẹt ấy, vẫn đôi mắt xếch ấy, vẫn cái mặt bủng như vỏ chanh ấy đấy à”.
- Đổi xe ở đây chứ? Anh yêu ơi!
- Không, ga sau. Đúng sau lúc đó thì có một anh vua đến với chúng ta"
Em thì thích Saclô hơn. Với lại, vua thì tốn lắm"
Đâu có! Thế em vẫn nhớ buổi dạ hội thuộc địa ở nhà hát Ca Vũ đấy cliứ? Phải trả những nghìn rười phơrăng để xem vợ lẽ nàng hầu cua Cao Miên (...), hôm nay thi chúng mình có mất ti tiên nào đâu mà được xem vua đang ngay cạnh. Nghe nói ông bầu nhà hát múa rối có ý định kí giao kèo thuê đấy..."
Nhờ hình thức viết thư. tác phẩm cũng có thế chuyển cảnh một cách thoải mái: từ cảnh đi xe điện ngầm ở Pari chuyển thẳng đến cảnh quê nhà, thời thơ ấu của nhân vật "tôi" khi còn ngồi vắt vẻo trên đầu gối của ông bác để nghe truyện cổ tích; từ chuyện cải trang của vua Thuấn bên Tầu, vua Pie bên Nga đến chuyện vi hành của các ông hoàng, bà chúa vì những lý do "không cao thượng bằng". Liên hệ tạt ngang, so sánh thoải mái nhằm châm biếm nhiều đối tượng một lúc. Thư là một lối văn rất chủ quan, người viết có thể đưa ra đủ mọi cảm nghĩ tự do của mình, đổng thời liên tưởng tạt ngang từ đối tượng này đến đối tượng khác nhiều khi chẳng có quan hệ gì với nhau Tác già Vi hành đã làm như thế. Chẳng hạn, từ câu chuyện "vi hành" của Khài Định, tác giả đã đưa ra đủ từ để suy đoán về hành vi bất chính của y, với những "phải chăng ngài muốn...", "hay là ngài muốn...". Ai cấm được người viết thư nêu ra những phán đoán mỉa mai như thế. Đặc biệt từ sự nhầm lẫn của đôi trai gái người Pháp, tác giả lại liên hệ tạt ngang hết sức bất ngờ đến bọn mật thám ở pari luôn luôn bám sát những người yêu nước Việt Nam theo lệnh của Chính phủ Pháp: "Cái vui nhất là ngay đến Chính phủ cũng chẳng nhận ra được khách thật của mình nữa, và để chắc chắn khỏi thất tHồ trong nhiệm vụ tiếp dân, chính phủ bèn đối đãi tất cà mọi người An Nam vào hang vua chúa và phái tuỳ từng đi hộ giá tuốt. Có thể nói là các vị bám lấy đế giày tôi, dính chặt với tôi như hình với bóng. Và thật tình là các vị cuống cuồng cả lên nếu mất hút tôi chỉ trong dăm phút".
Vi hành là một tác phẩm đầy tính chiến đấu. Tuy được viết ra để ứng chiến kịp thời, tác phẩm đã đạt tới trình độ nghệ thuật cao. Đặc biệt nghệ thuật châm biếm của thiên truyện thật độc đáo, linh hoạt, đa dạng, dường như mỗi chi tiết, mỗi câu, mỗi chữ đều muốn trở thành một lười dao sắc, một mũi tên nhọn nhằm vào kè thù