Đang chuẩn bị nút TẢI XUỐNG, xin hãy chờ
Tải xuống
Nhiễm khuẩn rốn (NKR) và uốn ván rốn (UVR) là một vấn đề y tế công cộng rất đáng quan tâm ở nước ta vì tần số xuất hiện khá phổ biến trong cộng đồng. Tỷ lệ NKR được ghi nhận tại các Bệnh viện (BV) ở Thành phố Hồ Chí Minh dao động từ 23% đến 43%; trong số này, có vài trường hợp cá biệt nặng dẫn đến nhiễm khuẩn huyết. Ở các nước đã phát triển, từ 1984 đã có nhiều nghiên cứu về chăm sóc rốn như thế nào là an toàn và lợi ích nhất,. | CHĂM SÓC RỐN TRẺ TÓM TẮT Mục đích nghiên cứu Nhiễm khuẩn rốn NKR và uốn ván rốn UVR là một vấn đề y tế công cộng rất đáng quan tâm ở nước ta vì tần số xuất hiện khá phổ biến trong cộng đồng. Tỷ lệ NKR được ghi nhận tại các Bệnh viện BV ở Thành phố Hồ Chí Minh dao động từ 23 đến 43 trong số này có vài trường hợp cá biệt nặng dẫn đến nhiễm khuẩn huyết. Ở các nước đã phát triển từ 1984 đã có nhiều nghiên cứu về chăm sóc rốn như thế nào là an toàn và lợi ích nhất nhằm tránh NKR UVR xảy ra tại bệnh viện cũng như khi trẻ xuất viện về nhà. Một trong những yếu tố có thể làm gi a tăng nguy cơ NKR và UVR là những hủ tục và tập quán nuôi con có hại gây mất vệ sinh trong việc chăm sóc rốn trẻ trong cộng đồng. Do đó nghiên cứu này có mục tiêu chính là tìm hiểu các đặc trưng cá nhân và xã hội ĐTCNXH cũng như kiến thức thái độ thực hành KT-TĐ-TH chăm sóc rốn trẻ sơ sinh CSRTSS của các bà mẹ. Phương pháp nghiên cứu Công trình nghiên cứu được thiết kế như là một nghiên cứu cắt ngang và mô tả. Địa điểm nghiên cứu là huyện Cần Giờ một huyện ngoại ô thuộc Thành phố Hồ Chí Minh. Đối tượng nghiên cứu gồm 265 bà mẹ đang nuôi con tuổi dưới 4 tháng và những trẻ em này chưa từng được chẩn đoán nhiễm khuẩn rốn. Các dữ liệu về kiến thức như phương pháp chăm sóc hiểu biết dịch tiết thời gian rụng rốn thái độ bao gồm tháo băng không tắm rốn giữ cuốn rốn khô sạch và thực hành chăm rốn như băng rốn bôi rốn tắm rốn lau rốn được thu thập dựa vào một bộ câu hỏi đã được kiểm định trước. Ngoài ra các thông tin liên quan đến bà mẹ như tuổi nghề nghiệp học vấn thành phần kinh tế số con hiện có cũng được thu thập qua phỏng vấn trực tiếp từng bà mẹ. Bộ môn Nhi - Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh B môn Nhi - Đ 1 h c Y Dư c TP. H Chí Mmh Kết quả Tuổi trung bình của các bà mẹ là 27 22-29 với khoảng 60 tuổi trên 25. Khoảng 60 bà mẹ là nội trợ hoặc không có việc làm ổn định 62 có trình độ học vấn cấp 1 62 có hai con trở lên và 35 được xem là có khó khăn về kinh tế gia đình. Khoảng 2 3 bà mẹ sinh đẻ ở các trung .