Đang chuẩn bị nút TẢI XUỐNG, xin hãy chờ
Tải xuống
Tỷ số nợ phản ánh trong 100 đồng tài sản của doanh nghiệp đầu tư thì có 47 đồng tài sản(2008), 39 đồng (2009) từ vốn vay bên ngoài.Có thể thấy trong năm 2008 hệ số này khá cao.Tỷ lệ nợ phải trả chiếm gần 50% tổng tài sản. | Về chính sách tài chính trong kỳ doanh nghiệp đã có cơ cấu kinh doanh an toàn.thể hiện ở chỗ Đến năm 2009, tỷ số nợ đã giảm đi 17%, phản ánh mức độ rủi ro tài chính thấp hơn năm 2009, doanh nghiệp ít phụ thuộc vào các chủ nợ bên ngoài.Có thể thấy cơ cấu vốn của doanh nghiệp năm 2009 an toàn hơn năm 2008.Thể hiện ở chỗ, năm 2008 tỷ số nợ trên vốn chủ sở hữu là 0,9 đến năm 2009 còn 0,64. Tỷ suất tự tài trợ đã được cải thiện, năm 2009 tỷ suất tự tài trợ tăng lên 22%. do các khoản nợ phải trả giảm đáng kể, giảm 23% trong đó giảm chủ yếu là các khoản nợ dài hạn.các khoản nợ dài hạn giảm 90% và nợ ngắn hạn tăng 1%.Có thể thấy trong kỳ doanh nghiệp đã trả các khoản nợ dài hạn (chủ yếu đi vay ngân hàng quân đội) Doanh nghiệp trả các khoản nợ dài hạn, trong khi đó các khoản nợ ngắn hạn thì không được giảm mà còn tăng thêm. Như vậy trong ngắn hạn doanh nghiệp vẫn chịu rủi ro trong thnah toán. Các khoản nợ dài hạn được giảm nhiều như vậy cũng không tốt, bởi lẽ đây là nguồn vốn có tính ổn định, lâu dài. Nó giúp cho doanh nghiệp đầu tư, mở rộng sản xuất, mua sắm các trang thiết bị đầu tư cho sản xuất, giúp cho doanh nghiệp phát triển ổn định. Cũng có thể thấy trong năm 2008, tỷ số nợ trê vốn chủ sở hữu quá cao. Đây cũng là lý do mà đến năm 2009, các khoản nợ dài hạn không tăng thêm, khă năng huy động vốn của DN từ bên ngoài giảm.