Đang chuẩn bị nút TẢI XUỐNG, xin hãy chờ
Tải xuống
Bài báo trình bày kết quả nghiên cứu xây dựng phần mềm đánh giá chất lượng nước từ việc tin học hóa chỉ số chất lượng nước (WQI) bằng ngôn ngữ tin học hiện đại, từ đó áp dụng thử nghiệm cho tài nguyên nước mặt lưu vực sông Sêrêpôk, đồng thời kiểm nghiệm tính đúng đắn của phần mềm thông quan việc so sánh với kết quả theo phương pháp thống kê. | NGHIÊN CỨU & TRAO ĐỔI NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG PHẦN MỀM ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG NƯỚC, THỬ NGHIỆM CHO TÀI NGUYÊN NƯỚC MẶT LƯU VỰC SÔNG SÊRÊPÔK Trần Duy Kiều, Đinh Xuân Trường Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội ông tác đánh giá hiện trạng chất lượng nước đã được thực hiện từ rất sớm và ở nhiều lưu vực sông khác nhau. Việc đánh giá chất lượng nước có một vai trò vô cùng quan trọng trong quản lý, khai thác, sử dụng và phát triển bền vững tài nguyên nước. Trước đây, công tác đánh giá tài nguyên nước chủ yếu được thực hiện bằng phương pháp thống kê là chủ yếu, cho nên thường mất rất nhiều thời gian; đồng thời tính trực quan khi biểu diễn kết quả là rất hạn chế, khó khăn cho việc phân tích đánh giá chất lượng nước. Bài báo trình bày kết quả nghiên cứu xây dựng phần mềm đánh giá chất lượng nước từ việc tin học hóa chỉ số chất lượng nước (WQI) bằng ngôn ngữ tin học hiện đại, từ đó áp dụng thử nghiệm cho tài nguyên nước mặt lưu vực sông Sêrêpôk, đồng thời kiểm nghiệm tính đúng đắn của phần mềm thông quan việc so sánh với kết quả theo phương pháp thống kê. Từ khóa: Chất lượng nước, tài nguyên nước mặt, lưu vực sông Sêrêpôk. C 1. Đặt vấn đề Hiện nay, khi chất lượng tài nguyên nước mặt ở nhiều lưu vực sông đang trong tình trạng bị suy thoái nghiêm trọng, ảnh hưởng rất lớn đến việc khai thác, sử dụng tài nguyên nước. Cũng chính lý do đó mà đã có rất nhiều các dự án, các nghiên cứu đánh giá chất lượng nước nhằm đề xuất các giải pháp quản lý, khai thác hợp lý nguồn tài nguyên nước cho mỗi lưu vực sông. Việc đánh giá hiện trạng chất lượng nước thường được thực hiện bằng phương pháp thống kê dựa theo số liệu quan trắc hàng năm, hoặc số liệu qua những đợt khảo sát thực địa. Ưu điểm của phương pháp này là đơn giản, dễ thực hiện. Tuy nhiên khối lượng tính toán là rất lớn, tốn nhiều thời gian và công sức, các kết quả tính toán thường chỉ thể hiện được tính đơn lẻ, không thể hiện tính bao quát. Từ khi “Sổ tay hướng dẫn tính toán chỉ số chất lượng nước” được ra đời theo Quyết .