Đang chuẩn bị nút TẢI XUỐNG, xin hãy chờ
Tải xuống
Việc đánh giá đa dạng côn trùng sẽ góp phần bổ sung thông tin về đa dạng sinh học ở Khu BTTN Tàkóu và là cơ sở cho các nghiên cứu côn trùng sau này. | HỘI NGHỊ KHOA HỌC TOÀN QUỐC VỀ SINH THÁI VÀ TÀI NGUYÊN SINH VẬT LẦN THỨ 4 ĐA DẠNG CÔN TRÙNG Ở KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN TÀKÓU, TỈNH BÌNH THUẬN ĐẶNG VIỆT ĐÀI, HOÀNG MINH ĐỨC, LƯU HỒNG TRƯỜNG Viện Sinh học Nhiệt đới Khu Bảo tồn thiên nhiên (Khu BTTN) Tàkóu với núi Tàkóu có một hệ động vật và thực vật không chỉ có giá trị sử dụng mà còn có ý nghĩa khoa học, cần được quan tâm bảo vệ. Chính vì vậy, khu vực này được xem là một trong những khu rừng đặc dụng quan trọng trong việc bảo tồn đa dạng sinh học của nước ta. Mặc dù vậy, vẫn chưa có khảo sát đa dạng côn trùng nào tại đây được công bố. Vì vậy, việc đánh giá đa dạng côn trùng sẽ góp phần bổ sung thông tin về đa dạng sinh học ở Khu BTTN Tàkóu và là cơ sở cho các nghiên cứu côn trùng sau này. I. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Khảo sát tiến hành từ tháng X/2008 đến tháng XI/2010, bằng 2 phương pháp: tuyến và bẫy đèn. Phương pháp tuyến là phương pháp chủ yếu, áp dụng cho tất cả các đối tượng côn trùng. Trong 8 tuyến được chọn có 4 tuyến khảo sát núi Tàkóu, gồm tuyến khảo sát đường mòn lên núi từ nhà ga cáp treo (DLN), tuyến xuống núi qua đèo Hải Quân (HQN), tuyến xuống núi ven suối (SCH) và tuyến từ nhà ga cáp treo trên núi lên tượng Phật nằm (TPH). Bẫy đèn trên núi đặt tại nhà ga (NHG) và tượng Phật nằm (PHT). Các tuyến khảo sát khu vực khác gồm tuyến qua Ban Quản lý (BQL), tuyến suối Vàng (SVG), tuyến bưng Thị (BTH) và tuyến Tà Đặng (TDG). Bẫy đèn dưới núi đặt tại Ban Quản lý (BAN) và bưng Thị (CHC). Thời gian khảo sát ban ngày từ 8g đến 11g và 13g đến 16g. Thời gian bẫy đèn từ 20g đến 21g30. II. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN Qua đợt khảo sát đã ghi nhận được 184 loài thuộc 118 giống, 28 họ, 7 bộ (Bảng 1). Trong số này, bộ Cánh vảy Lepidoptera có số lượng loài ghi nhận được nhiều nhất với 142 loài (chiếm 77% tổng số loài). Tiếp đến là bộ Coleoptera với 17 loài (9%), Odonata với 16 loài (8,7%), Orthoptera với 4 loài (2,1%). Bộ Hemiptera và Homoptera ghi nhận được 2 loài mỗi bộ và Mantodea ghi nhận được ít nhất với 1 loài. Bảng 1 Danh .