Đang chuẩn bị nút TẢI XUỐNG, xin hãy chờ
Tải xuống
Mục tiêu của nghiên cứu để góp phần đánh giá tính khả thi, an toàn và hiệu quả của phẫu thuật nội soi sau phúc mạc tạo hình khúc nối bể thận - niệu quản kiểu cắt rời ở trẻ em. bài viết để nắm rõ nội dung chi tiết. | Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Số 4 * 2012 PHẪU THUẬT NỘI SOI SAU PHÚC MẠC TẠO HÌNH KHÚC NỐI BỂ THẬN – NIỆU QUẢN KIỂU CẮT RỜI Ở TRẺ EM: NHỮNG KINH NGHIỆM BAN ĐẦU Ngô Đại Hải*, Nguyễn Tuấn Vinh*, Vũ Lê Chuyên* TÓM TẮT Mục tiêu nghiên cứu: góp phần đánh giá tính khả thi, an toàn và hiệu quả của phẫu thuật nội soi sau phúc mạc tạo hình khúc nối bể thận –niệu quản kiểu cắt rời ở trẻ em. Phương pháp nghiên cứu: Trong thời gian từ tháng 5 năm 2006 đến tháng 12 năm 2011, tại khoa Niệu bệnh viện Bình Dân, có 96 bệnh nhân hẹp khúc nối bể thận niệu quản nguyên phát được phẫu thuật nội soi sau phúc mạc tạo hình, trong đó có 16 bệnh nhi tuổi từ 16 trở xuống. Chúng tôi dùng bộ dụng cụ nội soi của Storz với ống kính 10mm, các trocar 5 và 10mm, đặt 3 hoặc 4 trocar ở vùng hông lưng sau khi đã bơm hơi bằng bong bóng để tạo khoang làm việc sau phúc mạc, tạo hình khúc nối kiểu cắt rời, khâu nối bểthận – niệu quản bằng chỉ Vicryl 4.0, có đặt thông JJ lưu trong lúc mổ, chuyển vị khúc nối khi có mạch máu bất thường chèn ép. Bệnh nhân được rút thông JJ sau 4 – 6 tuần, sau 3 – 6 tháng hoặc 12 tháng thì siêu âm, chụp UIV hoặc xạ hình thận. Chúng tôi ghi nhận và phân tích các dữ liệu của loạt ca bệnh nhi này trước mổ, trong mổ và sau mổ. Kết quả: Tất cả 16 ca bệnh nhi đều được phẫu thuật thành công qua ngã nội soi sau phúc mạc. Thời gian mổ trung bình là 123,13 phút (90 – 195). Lượng máu mất trung bình là 8,94 ml (3 – 30). Thời gian dùng thuốc giảm đau trung bình là 5,19 ngày (4 – 7). Thời gian nằm viện trung bình là 5,38 ngày (4 – 7). Mạch máu bất thường cực dưới được phát hiện trong 4 trường hợp (25%). Có 9 trường hợp bị tràn khí dưới da nhưng ở mức độ nhẹ không cần xử trí đặc hiệu. Không có biến chứng hậu phẫu. Sau thời gian theo dõi trung bình là 29,5 tháng (7 – 72) có 15 ca có cải thiện trên lâm sàng và cận lâm sàng (93,8%), 1 ca thất bại được nội soi niệu quản xẻ hẹp bằng dao điện cho kết quả tốt. Kết luận: Phẫu thuật nội soi sau phúc mạc tạo hình khúc nối bể .