Đang chuẩn bị nút TẢI XUỐNG, xin hãy chờ
Tải xuống
Nội dung ebook trình bày khái niệm PES trong bối cảnh Việt Nam, năm nghiên cứu điểm của các dự án PES đang triển khai tại Việt Nam cũng như bài học kinh nghiệm từ dự án RUPES tại khu vực Đông Nam Á được trình bày để làm rõ hơn khái niệm mới này. | 3 Lời mở đầu Bản chất của hoạt động chi trả dịch vụ môi trường1 là tạo cơ chế khuyến khích và mang lại lợi ích cho những người hiện đang sử dụng các hệ sinh thái có ý nghĩa môi trường 2 để đổi lấy việc họ sử dụng các hệ sinh thái này theo cách bảo vệ hoặc tăng cường các dịch vụ môi trường để phục vụ lợi ích của phần đông dân số. Với cách làm này thì từng người dân của cộng đồng có thể được hưởng lợi trực tiếp từ dịch vụ họ mang lại. Nói cách khác, những người cung cấp dịch vụ môi trường nên được chi trả hoặc bồi hoàn cho những gì họ làm để duy trì chức năng của hệ sinh thái, và những người sử dụng dịch vụ môi trường nên chi trả cho những dịch vụ này. Ở Việt Nam, thuật ngữ dịch vụ hệ sinh thái được sử dụng phổ biến hơn thuật ngữ dịch vụ môi trường bởi vì dịch vụ môi trường đang được hiểu là theo nghĩa bảo vệ môi trường như các vấn đề ô nhiễm. Thuật ngữ dịch vụ hệ sinh thái được sử dụng trong dự thảo Luật Đa dạng sinh học và khung chính sách thí điểm của Bộ Nông nghiệp và phát triển Nông thôn. Hơn 10 năm qua, khái niệm chi trả dịch vụ môi trường và các ứng dụng của nó đã và đang nhận được sự quan tâm đáng kể của các nhà nghiên cứu môi trường, các nhà khoa học và nhà hoạch định chính sách trong toàn khu vực Đông Nam Á. Gần đây sự thành công của Chương trình ‘Chi trả dịch vụ môi trường cho người dân vùng cao về dịch vụ môi trường mà họ cung cấp - RUPES’ tại Việt Nam. Đây là kết quả của sự quan tâm của chính phủ Viêt nam, cụ thể là của Trung tâm nghiên cứu sinh thái và môi trường rừng (RCFEE) Viện Khoa học lâm nghiệp Việt Nam(FSIV), Bộ Tài nguyên và Môi trường (MONRE), và là đóng góp đáng kể của đối tác RUPES, trong đó có Tổ chức Winrock Quốc tế, Trung tâm Nông Lâm nghiệp thế giới (ICRAF), Trung tâm Nghiên cứu lâm nghiệp quốc tế (CIFOR), Quỹ Quốc Tế Bảo Vệ Thiên Nhiên (WWF), Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới (IUCN) trong 5 năm qua. Những nỗ lực đóng góp này gồm: nguyên và Môi trường dự thảo, tham khảo Phần 3.1; trả từ người sử dụng điện nên được chi trả cho .