TAILIEUCHUNG - Giáo trình hướng dẫn phân tích điều khiển luồng và tránh tắc nghẽn thông tin theo tiến trình Poisson p9

Hình: Sử dụng bit chỉ thị tắc nghẽn để thay đổi kích thước cửa sổ Thiết bị mạng không thông minh Trong trường hợp này, các thiết bi mạng không có khả năng cảnh báo cho phía phát về tình trạng tắc nghẽn và việc xác định tắc nghẽn trong mạng hoàn toàn dựa trên việc suy đoán của nút nguồn. | Hình Sử dụng bit chỉ thị tắc nghẽn để thay đổi kích thước cửa sổ Thiết bị mạng không thông minh Trong trường hợp này các thiết bi mạng không có khả năng cảnh báo cho phía phát về tình trạng tắc nghẽn và việc xác định tắc nghẽn trong mạng hoàn toàn dựa trên việc suy đoán của nút nguồn. Thiết bị mạng không thông minh là các thiết bi mạng đơn giản không có khả năng xác định trạng thái bộ đệm trạng thái CPU hay trạng thái sử dụng đường truyền. Trong một số trường hợp khác do yêu cầu hoạt động với tốc độ cao nên các thiết bị mạng có thể cũng không k kiểm tra về trình trạng tắc nghẽn có thể xảy ra mỗi khi gói tin đi qua thiết bị. Khi không có sự hỗ trợ của thiết bị mạng nút nguồn kết luận về trạng thái tắc nghẽn hoàn toàn dựa trên báo nhận được gửi về. Trong trường hợp mạng bị tắc nghẽn báo nhận có thể bị trễ lớn trễ báo nhận hoặc trễ gói đến phía thu hoặc có thể bị mất mất báo nhận hoặc mất gói nên không có báo nhận . Trong trường hợp mất báo nhận hoặc báo nhận đến quá trễ nút nguồn sẽ phải phát lại gói và việc phát lại này có thể coi là một tín hiệu để kết luận về tình trạng tắc nghẽn. Cơ chế tắc nghẽn này gọi là cơ chế điều khiển tắc nghẽn dùng cửa sổ thích ứng dựa trên time-out và hoạt động như sau Tại thời điểm ban đầu nút nguồn đặt kích thước cửa sổ bằng Wmax Mỗi khi có time-out xảy ra và phía phát phải thực hiện phát lại gói tin thì nút nguồn sẽ đặt W 1 Mỗi khi nhận được n báo nhận từ nút đích phía phát lại tăng kích thước cửa sổ lên 1. Kích thước cửa sổ sẽ không bao giờ vượt quá kích thươc cửa sổ Wmax. Với việc thay đổi giá trị n người ta có thể thực hiện điều khiển tắc nghẽn ở nhiều mức độ khác nhau. Trong trường hợp này chúng ta giả thiết tỷ lệ lỗi bit là khá nhỏ và timeout xảy ra hoàn toàn là do trễ chứ không phải do mất gói vì lỗi bit. Ví dụ trên hình dưới đây minh họa cơ chế điều khiển tắc nghẽn theo cửa sổ thích ứng dựa trên time-out. Trong ví dụ này kích thước cửa sổ ban đầu Wmax 4 và giá trị n 2. Giả thiết rằng các nút mạng trung gian có thể gây ra trễ .

TỪ KHÓA LIÊN QUAN
Đã phát hiện trình chặn quảng cáo AdBlock
Trang web này phụ thuộc vào doanh thu từ số lần hiển thị quảng cáo để tồn tại. Vui lòng tắt trình chặn quảng cáo của bạn hoặc tạm dừng tính năng chặn quảng cáo cho trang web này.