TAILIEUCHUNG - Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển và tính chất của lực lượng sản

Tham khảo tài liệu quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển và tính chất của lực lượng sản , luận văn - báo cáo phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả | Trước tình hình đó, một cách tự phát, bọn chủ nô đem chia đất đai của họ cho nô lệ cầy, đổi lại nô lệ phải đóng địa tô cho chủ nô. Chế độ nô lệ được xoá bỏ, nô lệ được giải phóng. Sự thay đổi dẫn đến những thay đổi lớn trong xã hội. Nô lệ biến thành nông nô, nông dân tự do bị đẩy xuống địa vị ấy. Xã hội chia ra làm hai giai cấp lớn: địa chủ và nông dân thay cho chủ nô và nô lệ; chiếm hữu phong kiến thay thế cho chiếm hữu nô lệ. Thiết lập quan hẹ sản xuất phong kiến trong đó toàn bộ tư liệu sản xuất thuộc về chúa phong kiến và giao những tư liệu đó cho những người nông dân cày cấy rồi nộp địa tô cho chúng. Sau khi nộp địa tô, số sản phẩm còn lại sẽ thuộc về người nông dân. Đây là điểm tiến bộ hơn so với quan hệ chiếm hữu nô lệ. Điểm này đã thúc đẩy nông dân chăm chỉ lao động, tìm mọi cách tăng năng suất lao động, đồng nghĩa với việc họ có nhiều sản phẩm thuộc về họ hơn sau khi nộp địa tô. Lao động sản xuất được coi trọng nên các hoạt động sản xuất trở lại bình thường và phát triển. Cầy sắt được truyền bá rộng rãi, kỹ thuật canh tác được cải tiến, phân công lao động trong nội bộ nông nghiệp mở rộng hơn, các nghề thủ công cũng chuyên môn hoá hơn, cải tiến cách nấu gang, chế biến sắt dẫn tới cải tiến hơn nữa công cụ, nhiều phát minh ra đời: khung cửi, cối xay gió, thuốc nổ, máy in, đồng hồ năng suất lao động xã hội tăng lên rõ rệt tạo đà cho lực lượng sản xuất phát triển hơn. Quan hệ sản xuất phong kiến phù hợp với trình độ phát triển và tính chất của lực lượng sản xuất nên đã thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển hơn nữa. Sự phát triển của lực lượng sản xuất được thể hiện rõ qua mối quan hệ giữa nông dân và chúa phong kiến bằng các hình thức địa tô. Trong thời kỳ đầu, địa tô lao dịch được áp dụng phổ biến. Người nông dân phải bỏ một số thời gian do chúa phong kiến quyết định sang làm việc trên ruộng đất của chúa phong kiến. Thời gian còn lại thì họ được sử dụng cho nền kinh tế riêng. Trong khi làm lao dịch, nông dân không quan tâm đến việc tăng năng suất lao động. Vì vậy, khi chế độ phong kiến đã phát triển thì địa tô lao dịch được thay thế bằng địa tô hiện vật. Nghĩa là nông dân chỉ phải nộp một phần sản phẩm mình làm ra (do chúa phong kiến quyết định) cho chúa phong kiến, số còn lại là của họ. Vào giai đoạn cuối của chế độ phong kiến, địa tô hiện vật được thay thế bằng địa tô tiền tệ. Vì chúa phong kiến cần tiền để mua hàng xa xỉ, công nghệ. Lúc này, nông dan phải bán sản phẩm của mình, để lấy tiền nộp tô. Bấy giờ quan hệ giữa nông dân và chúa phong kiến chỉ còn thuần tuý là quan hệ giữa người thuê ruộng và người cho thuê ruộng. Từ địa tô lao dịch đến địa tô tiền tệ thì người nông dân càng được độc lập nhiều hơn trong sử dụng lao động và thời giờ của mình, do đó, càng hứng thú lao động và càng quan tâm phát triển sản xuất, mặc dù họ bị bóc lột tàn khốc, sống trong nghèo đói. Qua mỗi hình thức địa tô, năng suất lao động xã hội được nâng cao, đó là thước đo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

TÀI LIỆU LIÊN QUAN
TỪ KHÓA LIÊN QUAN
TÀI LIỆU MỚI ĐĂNG
TAILIEUCHUNG - Chia sẻ tài liệu không giới hạn
Địa chỉ : 444 Hoang Hoa Tham, Hanoi, Viet Nam
Website : tailieuchung.com
Email : tailieuchung20@gmail.com
Tailieuchung.com là thư viện tài liệu trực tuyến, nơi chia sẽ trao đổi hàng triệu tài liệu như luận văn đồ án, sách, giáo trình, đề thi.
Chúng tôi không chịu trách nhiệm liên quan đến các vấn đề bản quyền nội dung tài liệu được thành viên tự nguyện đăng tải lên, nếu phát hiện thấy tài liệu xấu hoặc tài liệu có bản quyền xin hãy email cho chúng tôi.
Đã phát hiện trình chặn quảng cáo AdBlock
Trang web này phụ thuộc vào doanh thu từ số lần hiển thị quảng cáo để tồn tại. Vui lòng tắt trình chặn quảng cáo của bạn hoặc tạm dừng tính năng chặn quảng cáo cho trang web này.