TAILIEUCHUNG - Nội soi chẩn đoán trong chấn thương - vết thương bụng
Nghiên cứu này nhằm: xác định các chỉ định thích hợp cho nội soi trong CT-VTB, xác định độ nhạy, độ chuyên của nội soi trong chẩn đoán thương tổn tạng rỗng. Mời các bạn tham khảo! | Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 7 * Phụ bản của Số 1 * 2003 NỘI SOI CHẨN ĐOÁN TRONG CHẤN THƯƠNG - VẾT THƯƠNG BỤNG Trần Chánh Tín*, Nguyễn Tấn Cường*, Bùi Văn Ninh* TÓM TẮT Đặt vấn đề Dù cho sự phát triển của các phương tiện chẩn đóan trong chấn thương bụng và vết thương bụng(CT-VTB) như XQ, chọc rửa ổ bụng chẩn đóan, siêu âm, chụp cắt lớp điện tóan, tỷ lệ mổ bụng thám sát hay mổ bụng vì những thương tổn không đáng mổ còn cao. Những cuộc mổ thám sát này đã gây ra một số biến chứng có ý nghĩa, và thời gian nằm viện kéo dài, mất thẩm mỹ. Nội soi bụng trong CT-VTB được áp dụng tại nhiều trung tâm chấn thương lớn trên thế giới, và giá trị của nó còn đang được tranh luận. Việt nam, vai trò của nó chưa được xác định. Nghiên cứu này nhằm: xác định các chỉ định thích hợp cho nội soi trong CT-VTB, xác định độ nhạy, độ chuyên của nội soi trong chẩn đóan thương tổn tạng rỗng Phương pháp: Nghiên cứu tiền cứu lâm sàng với nhóm chứng tự thân. Kết quả: 40 bệnh nhân, gồm 15() vết thương thấu bụng, 25 () chấn thương bụng kín. Các chỉ định đối với chấn thương bụng kín của chúng tôi là: nghi ngờ tt tạng rỗng trên lâm sàng và các phương tiện chẩn đoán hình ảnh. Đối với vết thương thấu bụng gồm: vết thương ngực bụng, tất cả các vết thương thấu bụng không kèm sốc mất máu, viêm phúc mạc, lòi ruột. Phát hiện được 37 thương tổn trong tổng số 39 thương tổn, đạt được độ nhạy 95%. Độ chuyên đối với ruột non là 100%, đại tràng 97%. 30(75%) trường hợp nội soi thuần túy với thời gian mằm viện trung bình 3 ngày, gồm cả 2 ca soi ngực và bụng, 10(25%) trường hợp chuyển sang mổ mở với thời gian nằm viện trung bình 7 ngày. Không trường hợp nào biến chứng sau mổ. 01 trường hợp tử vong sau mổ vì chấn thương sọ não .
đang nạp các trang xem trước