TAILIEUCHUNG - Sarcôm sụn nhầy ngoài xương: Báo cáo một trường hợp
Đề tài với nội dung báo cáo một trường hợp sarcôm sụn nhầy ngoài xương, một u ác tính hiếm gặp của mô mềm lần đầu tiên được chẩn đoán tại Trung tâm Giải phẫu bệnh - Tế bào học Bạch Mai. Bệnh nhân nữ 50 tuổi có u ở cạnh khớp gối với hình ảnh đại thể và vi thể điển hình của SSNNX. Nhuộm hóa mô miễn dịch, tế bào u dương tính với vimentin, S-100, NSE và âm tính với CK, desmin, synaptophysin, chromogranin. | SARCÔM SỤN NHẦY NGOÀI XƯƠNG: BÁO CÁO MỘT TRƯỜNG HỢP Bùi Thị Mỹ Hạnh* TÓM TẮT Chúng tôi báo cáo một trường hợp Sarcôm sụn nhầy ngoài xương, một u ác tính hiếm gặp của mô mềm lần đầu tiên được chẩn đoán tại Trung tâm Giải phẫu bệnh – Tế bào học Bạch Mai. Bệnh nhân nữ 50 tuổi có u ở cạnh khớp gối với hình ảnh đại thể và vi thể điển hình của SSNNX. Nhuộm hóa mô miễn dịch, tế bào u dương tính với vimentin, S-100, NSE và âm tính với CK, desmin, synaptophysin, chromogranin. SUMMARY EXTRASKELETAL MYXOID CHONDROSARCOMA: A CASE REPORT Bui Thi My Hanh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 – Supplement of No 1 - 2009: 197 - 200 Extraskeletal myxoid chondrosarcoma (EMCS) is an uncommon clinicopathologically well-defined tumor, but its pathogenesis and biologic behavior are poorly understood. Firstly, at Centre of Pathology and Cytology of Bach Mai Hospital, we reviewed a cases of EMCS to verify clinical and pathologic features, immunohistochemical profiles. The patient is a 50 ages woman. The tumor was located in thigh (around knee) and showed typical features of EMCS. The tumor cells were immunoreactive for vimentin, S-100 protein, NSE. Synaptophysin, chromogranin, SMA and some epithelial markers (CK and epithelial membrane antigen) were entirely negative. Chuyên Đề Ngoại Khoa 1 Sarcôm sụn nhầy ngoài xương (SSNNX) là một u mô mềm ác tính hiếm gặp, chỉ chiếm dưới 3% cac Sarcôm mô mềm. Trong các phân loại trước đây, SSNNX được xếp trong nhóm các Sarcôm sụn ngoài xương (bao gồm Sarcôm sụn biệt hóa tốt, Sarcôm sụn nhầy, Sarcôm sụn trung mô, Sarcôm sụn kém biệt hóa). Nhưng trong phân loại các Sarcôm mô mềm của Tổ chức Y tế Thế giới (năm 2002), SSNNX được xếp trong nhóm các Sarcôm mô mềm không rõ nguồn gốc, bởi các nghiên cứu về di truyền tế bào và gen phân tử đã cho thấy đây là một thực thể hình thái học riêng biệt, đặc trưng bởi chuyển đoạn nhiễm sắc thể t(9;22)(q22;q12) hoặc t(9;17)(q22;q11) và tạo ra các gen kết hợp đặc hiệu tương ứng là EWSR1-NR4A3 hoặc RBP56-NR4A3, đồng thời
đang nạp các trang xem trước