Kết thúc bản Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng tuyên bố rằng:
Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tính thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.
Dựa vào những hiểu biết về tác phẩm Tuyên ngôn Độc lập, anh (chị) hãy phân tích đoạn văn trên để làm sáng tỏ những tư tưởng lớn của Người.
BÀI LÀM THAM KHẢO
Dòng máu Lạc Hồng, bốn nghìn năm
Dòng máu đò tươi chảy trong tim mình
Nòi giống Lạc Hồng, giống rồng tiên
Nguyện ôm bao đời đất mẹ.
(Dòng máu Lạc Hồng - Lê Quang)
Đất nước ta sống trong một hoàn cảnh có không gian địa lí đặc biệt: lưng tựa vào dãy Trường Sơn hùng vĩ, mặt hướng ra Biển Đông bốn mùa sóng vỗ. Trải qua mấy ngàn năm lịch sử, dân tộc ta phải đương đầu với đủ loại ngoại xâm: Từ Bắc xuống, từ Nam lên, từ Tây sang, từ Đông vào cho nên cùng với những chiến công hiển hách; phá Tống, bình Nguyên, diệt Minh, đuổi Thanh, nền văn học chúng ta cũng đã có những áng văn kiệt tác khẳng định đanh thép chủ quyền độc lập của dân tộc. Bên cạnh bài thơ Thần Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt sang sảng ngâm trên sông Như Nguyệt, Bình Ngô đại cáo một áng thiên cổ hùng văn của Nguyễn Trãi, ngày nay chúng ta có Tuyên ngôn Độc lập là một áng văn chính luận mẫu mực, nổi tiếng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tinh hoa của dân tộc, khí phách của non sông.
Cách mạng tháng Tám thành công. Ngày 2 - 9 - 1945, tại quảng trường Ba Đình, trước hơn nửa triệu đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn Độc lập. Áng văn này mang ý nghĩa lịch sử vô cùng trọng đại: tuyên bố thủ tiêu vĩnh viễn chế độ thực dân - phong kiến trên đất nước ta, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra một kỉ nguyên độc lập, tự do của dân tộc. Kết thúc bản Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng tuyên bố: Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thê dân tộc Việt Nam quyết đem tất cà tỉnh thần và lực lượng, tính mạng và của cài để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy. Một lời tuyên bố đanh thép và hùng hồn, đã kết tinh một cách sáng ngời những nội dung cơ bản của Tuyên ngôn Độc lập.
Trước hết, Hồ Chủ tịch khẳng định "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập vì đó là điều phù hợp với đạo lí và pháp lí. Đất nước và con người Việt Nam cũng như tất cả mọi quốc gia, mọi dân tộc và mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng..., có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc (Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mĩ). Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập bởi lẽ người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đang về quyền lợi (Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền cùa Cách mạng Pháp năm 1791). Từ nhân quyền, Hồ Chủ tịch đã suy rộng ra, nói đến quyền tự quyết của mọi dân tộc: Tất cà các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyển sung sướng và quyền tự do. Lẽ phải ấy không ai chối cãi được và vô cùng thiêng liêng. Sau hơn tám mươi năm bị thực dân Pháp thống trị, lời tuyên bố Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập biểu lộ niềm tự hào dân tộc và khát vọng độc lập, tự do của đất nước và con người Việt Nam.
Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Đó là một thực tế lịch sừ không ai chối cãi được. Hồ Chủ tịch đã vạch trần những tội ác dã man về chính trị, về kinh tế của thực dân Pháp đối với dân tộc ta trong suốt tám mươi năm trời. Chúng áp bức, bóc lột dân ta đến tận xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thon, nước ta xơ xác, tiêu điều. Thực dân Pháp đã tước đoạt tự do, dìm nhân ta trong bể máu và nước mắt trong đêm trường nô lệ: Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi cùa ta. Chúng làm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu,... Thực dân Pháp chỉ trong vòng năm năm (1940 - 1945), chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật. Pháp và Nhật đã gây ra nạn đói năm Ất Dậu (1945) làm cho hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói. Trước khi thua chạy (9 - 3 - 1945), bọn thực dân Pháp còn nhẫn tâm giết nổt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng. Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Đó là lẽ phải, là sự thật lịch sử không ai chối cãi được. Cách mạng tháng Tám bùng nổ và thắng lợi, dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời khi ba kẻ thù bị lật đổ, thất bại: Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bào Đại thoái vị. Độc lập và tự do là thành quả đấu tranh và cách mạng bền bỉ, gan góc, lâu dài cùa dân tộc ta: Một dân tộc đã gan góc chổng ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chổng phát xít mẩy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập.
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời là một sự thật lịch sử, nên Hồ Chủ tịch mới tuyên bố một cách đanh thép, hùng hồn: Tuyên bố thoát li hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã kí về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam. Độc lập tự do là khát vọng, là ý chí của đất nước và con người Việt Nam, của dân tộc Việt Nam. Lời tuyên bố vang lên như một lời thề thiêng liêng làm chấn động lòng người: Toàn thê dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tinh mạng và cùa cài để giữ vững quyển tự do, độc lập ấy. Cụm từ "Toàn thể dân tộc Việt Nam" nói lên sức mạnh đại đoàn kết, triệu triệu con người Việt Nam kết thành một khối mà không thể một kẻ thù tàn bạo nào có thể khuất phục được! Tự do hay là chết!, Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành lại nền độc lập!. Quyết tâm ấy được Hồ Chủ tịch tuyên bố đanh thép hùng hồn. Triệu triệu con người Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và cùa cài để giữ vững quyển tự do, độc lập ấy. Lời tuyên bố của Hồ Chủ tịch là lời cảnh cáo nghiêm khắc đổi với thực dân Pháp đang âm mưu tái chiếm Việt Nam một lần nữa, đồng thời kêu gọi toàn thể dân tộc Việt Nam sẵn sàng chiến đấu hi sinh cho độc lập, tự do của Tổ quốc. Ba mươi năm kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ của nhân dân ta đã thể hiện một cách hùng hồn lời tuyên bố mạnh mẽ ấy. Đó là khát vọng, là ý chí sắt đá về độc lập tự do của dân tộc ta, của nhân dân ta. Một lần nữa, Người lại tuyên bố: Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. (Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến - ngày 19 tháng 12 năm 1946).
Hơn nửa thế kỉ đã trôi qua, kể từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập. Những chặng đường lịch sử vẻ vang của dân tộc ta đã trải qua rất đáng tự hào: Cách mạng tháng Tám - Chiến thắng Điện Biên Phủ oai hùng - Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng - Non sông liền một dải, Bắc Nam sum họp một nhà...
Tuyên ngôn Độc lập xứng đáng là một áng “thiên cổ hùng văn”. Nó đã kế tục truyền thống vinh quang của Nam quốc sơn hà, của Bình Ngô đại cảo. Nó là lời non nước cao cả và thiêng liêng, thể hiện sâu sắc tư tưởng vĩ đại: Không có gì quý hơn độc lập tự do, biểu lộ ý chí và sức mạnh Việt Nam.
Đọc đoạn văn cuối bản Tuyén ngôn Độc lập, chúng ta càng thấm thía tự hào về độc lập, tự do mà dân tộc ta đã giành được bằng xưong máu của bao thế hệ, của bao anh hùng liệt sĩ.