Suốt bốn ngàn năm lịch sử, dân tộc Việt Nam luôn luôn phải chiến đấu quyết liệt để bảo vệ nền độc lập dân tộc. Điều này như một sợi chỉ đỏ xuyên suốt các tác phẩm văn học lớn từ xưa tới nay.
Ra đời vào những thời điểm trọng đại của đất nước, một số áng thơ văn đã được coi như những tuyên ngôn độc lập của dân tộc của dân tộc, mang dấu ấn của một thời, song giá trị của nó trường tồn cùng dân tộc.
Lịch sử giữ nước và hào hùng của dân tộc ta ở các thế kỉ XI, XV và XX đã được văn học nước nhà ghi lại qua một số tác phẩm bất hủ. Chúng ta còn nhớ cách đây hơn 900 năm, năm 1077, quân xâm lược nhà Tống với binh hùng tướng mạnh, hùng hổ kéo sang xâm lược nước ta. Bọn chúng đã bị người anh hùng dân tộc Lí Thường Kiệt cùng quân dân ta chặn đánh quyết liệt. Cuộc hành quân tàn bạo của giặc Tống bị chặn đứng trên trận tuyến sông Như Nguyệt nổi tiếng trong lịch sử. Bài thơ Thần hay còn gọi là Nam quốc sơn hà đã ra đời trong hoàn cảnh chiến đấu ác liệt này. Bài thơ có nguyên tắc bằng chữ Hán.
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Qua bài thơ thất ngôn tứ tuyệt này, vị tổng tư lệnh quân đội Việt Nam thời đó, tương truyền là tác giả bài thơ, đã khẳng định chủ quyền độc lập bất khả xâm phạm của dân tộc. Mở đầu bài thơ tác giả đã khẳng định một cách sắt đá:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Nam quốc sơn hà là sông núi nước Nam, Nam đế cư là vua nước Nam ở. Điều đó đã trở thành bất di bất dịch, ở đây, Lí Thường Kiệt nói đến vua nhưng điều chủ yếu là trong giai đoạn lịch sử này là quyền lợi của dân tộc và quyền lợi của giai cấp thống trị gắn bó chặt chẽ với nhau. Nước mất, nhà tan, điều đó ai cũng hiểu. Chính vì vậy ở thời điểm đó, Nam đế không tách rời dân tộc mà biểu hiện cho sức mạnh vùng lên quyết bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ của dân tộc. Kế đó, tác giả nhấn mạnh thêm điều mình vừa khẳng định, nước Nam là của vua Nam, của dân Nam và đã được Tiệt nhiên định phận tại thiên thư, có nghĩa là một sự quả quyết chắc chắn. Giai cấp thống trị xưa kia khi cần củng cố địa vị thống trị của mình thường dùng thần quyền để dễ mê hoặc con người. Cho nên ngay cả khi giai cấp phong kiến hình thành, chính nó đã không ngừng gieo sâu vào tiềm thức của mọi người: vua là con trời, vua thay trời trị vì dân chúng, vua là người trung gian cầm cân nảy mực trong quan hệ giữa các thành viên trong xã hội phong kiến. Và cũng chính vì thế, theo quan niệm của người xưa, trời chính là một lực lượng siêu nhiên có quyền uy tối cao, có sức mạnh vô địch; trời là sức mạnh, trời là chân lí. Lí Thường Kiệt đã rất khéo léo trong việc lấy uy quyền của trời để xác nhận một cách vững chắc chủ quyền độc lập của dân tộc. Thực chất là ông đã mượn tư tưởng phong kiến để biện hộ cho ý tưởng của mình. Trên cơ sở đó, rõ ràng quyền lợi của dân tộc, của đất nước đã được đặt lên trên hết. Và nếu bóc đi cái vỏ thần kinh mầu nhiệm ấy thì sự khẳng định của Lí Thường Kiệt không gì khác là sự khẳng định của lí trí, của sức mạnh dân tộc, của sức mạnh chính nghĩa. Thần linh ở đây hiểu rộng ra thì đó chính là cha ông ta từng làm nên lịch sử giữ nước vẻ vang và giờ đây là linh hồn của đất nước tiếp sức cho con cháu bảo vệ vững chắc toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc thân yêu này. Xuất phát từ nhận thức đứng đắn đó, bài thơ là một bản anh hùng ca tràn đầy khí thế tiến công:
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Đứng trên lập trường của một dân tộc có chủ quyền, tác giả lên tiếng hỏi tội quân xâm lược và vạch trần tội ác của chúng. Rõ ràng ở đây, tác giả đang đứng ở tư thế của những người chiến thắng, tư thế của một dân tộc quật cường mà dồn kẻ thù vào chân tường của sự phi lí. Chúng là phi nghĩa, chúng đã làm trái lẽ trời; vậy trời sẽ không dung tha chúng, và sự thất bại cuối cùng của chúng là không thể tránh khỏi: Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư. Số phận của kẻ đi xâm lược tất yếu là như thế. Chúng sẽ bị tiêu diệt vì chúng đang tâm làm một việc phi nghĩa, chúng xâm phạm đến một đất nước có chủ quyền. Toàn bộ bài thơ vang lên tiếng nói của công lí, nó là bản anh hùng ca bất diệt của non sông đất nước, nó toát lên khí phách quật cường của hào khí tiến công. Bài thơ xứng đáng là một bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc, đã chứng tỏ rằng một dân tộc dù nhỏ bé nhưng anh dũng, can trường và có một truyền thống đấu tranh bảo vệ độc lập thì luôn đủ sức mạnh chiến thắng kẻ thù to lớn, bất kể chúng từ phương nào tới.
Tiếp nối truyền thống quý báu của dân tộc, ở thế kỷ XV, nhân dân ta đã tiếp tục viết nên những trang sử chói lọi trong sự nghiệp chiến đấu giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc. Trước đó ở thế kỉ XIII, quân dân nước Đại Việt đã ba lần đánh tan giặc Nguyên Mông. Đất nước hoà bình chưa được bao lâu thì giặc Minh tràn sang, gây cho dân ta bao đau thương tang tóc. Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã đứng lên lãnh đạo toàn dân làm một cuộc khởi nghĩa ròng rã mười năm trời, và kết thúc bằng thắng lợi vẻ vang. Cuộc khởi nghĩa ấy đã đi vào văn học qua Bình Ngô đại cáo tràn đầy tinh thần tự hào dân tộc:
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ, cõi đã chia,
Phong tục Bắc, Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập.
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương.
Tuy mạnh, yếu từng lúc khác nhau.
Song hào kiệt đời nào cũng có.
Niềm tự hào ấy có được là do đâu? Một điều hiển nhiên là lịch sử hào hùng của dân tộc đã được xem như là một cơ sở, một điểm tựa cho một quan niệm mới mẻ về dân tộc, về đất nước. Tác giả đã đặt dân tộc mình ở thế ngang hàng với các triều đại phong kiến Trung Quốc, phủ nhận tham vọng của một nước lớn muốn thôn tính nước bé. Điều đó khẳng định lại dù thế nào đi chăng nữa, nước ta là một quốc gia độc lập có chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không một thế lực ngoại bang nào có thể chà đạp. Tác giả đã kể tội ác tày trời của quân thù:
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Có thể nói, trải qua thử thách gian lao, ông cha ta đã dạn dày, đá hiểu thế nào là thế đứng của một dân tộc có chính nghĩa, thế nào là lửa thử vàng gian nan thử sức. Chính vì vậy mà trải qua những ngày nếm mật nằm gai, quân dân ta càng thêm đoàn kết sát cánh bên nhau vì sự nghiệp lớn lao:
Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới, Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào.
Tác giả đã thấy rõ khả năng và sức mạnh to lớn của toàn dân khi họ đoàn kết chiến ‘đấu dưới ngọn cờ chính nghĩa giành độc lập, tự do. Hình ảnh nhân dân ta được tác giả nhắc đến trong bài với một tình cảm thiết tha trìu mến và trân trọng. Sự nghiệp chính nghĩa là của nhân dân, thuộc về nhân dân. Nhân dân là một lực lượng đông đảo, nhân dân làm nên chiến thắng và làm nên lịch sử. Người cầm quân giỏi chính là người thấy sức mạnh vô địch ở nhân dân và biết tập hợp nhân dân để phát huy sức mạnh vĩ đại đó. Rõ ràng là so với Nam quốc sơn hà thì bài Cáo bình Ngô đã có một bước tiến vượt bậc. Tổ quốc, giang sơn ở đây không chỉ còn bó hẹp trong khái niệm ông vua và ông trời mà đã bao hàm một nội dung rộng lớn hơn: Tố quốc là nhân dân. Do vậy mà không cần thiết phải viện dẫn thần linh, Nguyễn Trãi chinh phục lòng người bằng chính lịch sử và bằng chính chiến công trong hiện tại với một quan điểm nhân nghĩa đúng đắn:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo.
Đó chính là quan điểm vô cùng nhân đạo và cao thượng thể hiện rõ thế đứng quật cường, thế đứng trên đầu thù của dân tộc ta. Thật hiếm có. một đất nước nào, một dân tộc nào có được thế đứng hào hùng, oanh liệt. Phải chăng dân tộc Việt Nam ta, tuy kinh qua khói lửa của chiến tranh nhưng với bản chất nhân đạo, đã làm nên thế đứng tuyệt vời đó. Thực ra, đại nghĩa và chí nhân ở đây cũng nhằm nói lên cái bản chất trong đạo lí ứng xử của dân tộc.
Bình Ngô đại cáo là một áng văn tuyệt tác của Nguyễn Trãi, đồng thời cũng là một kiệt tác trong nền văn học nước nhà. Cùng với Nam quốc sơn hà, bài Cáo bình Ngô đã toát lên tinh thần tự cường dân tộc, toát lên hào khí chống giặc giữ nước oai hùng. Bài Cáo bình Ngô là sự kết tinh của tư tưởng, tình cảm và ý chí quyết chiến, quyết thắng của dân tộc ta, của nhân dân ta trong một thời điểm lịch sử trọng đại. Hơn lúc nào hết, ngày nay những áng thơ văn bất hủ trên đã và đang được các thế hệ phát huy cao độ trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng tổ quốc.
Thế là lịch sử của dân tộc ta đã làm nên những trang sử hào hùng. Lịch sử đó đã phản ánh vào trong văn học thông qua những nhà văn, nhà thơ lớn và đồng thời cũng là những anh hùng của dân tộc. Những áng văn thơ đó thật xứng đáng là những bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc, khẳng định chủ quyền của dân tộc, tính chất chính nghĩa của những cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc của ông cha ta trong thời đại phong kiến.
Trải qua hàng ngàn năm dưới chế độ phong kiến và gần một trăm năm rên xiết dưới ách thống trị của thực dân Pháp, dân tộc ta vẫn làm nên những kì tích huy hoàng, vẫn vươn lên như một thiên thần (Tố Hữu). Một dân tộc khao khát tự do, một dân tộc khao khát hoà bình và thân thiện, một dân tộc quyết đem xương máu của mình để gìn giữ và bảo vệ độc lập tự do, đương nhiên dân tộc đó phải được sống trong độc lập và hoà bình. Chính vì vậy, bằng cuộc Cách mạng tháng Tám, dân tộc ta đã phá xiềng xích nô lệ bước sang cuộc đời mới. Cách mạng tháng Tám đã đem lại ấm no. Cách mạng tháng Tám đã đem lại một hình thái xã hội mới tốt đẹp hơn những hình thái đã có trong lịch sử. Chính bằng cuộc cách mạng này mà dân tộc ta đã thấy được con đường đi lên của chính mình, con đường mãi mãi thoát khỏi gông xiềng nô lệ. Ngày giành được chính quyền về tay nhân dân ta cũng là ngày đất nước bước sang một chính thể mới, chính thể dân chủ cộng hoà. Bản Tuyên ngồn độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh dọc tại quảng trường Ba Đình là một bản tuyên ngôn mở ra cho dân tộc ta một kỉ nguyên mới - kỉ nguyên hoà bình và hạnh phúc. Mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập, Bác trích lời bản tuyên ngôn của nước Mĩ và nước Pháp. Điều đó chứng tỏ dụng ý của Bác không chỉ tuyên bố độc lập trước toàn thể dân tộc, toàn thể nhân dân thế giới mà tuyên bố cho những cường quốc đã từng nhòm ngó xâm lược nước ta biết rằng: Việt Nam là một quốc gia độc lập, không can thiệp vào bất kì ,nước nào, và cũng kiên quyết không cho phép bất kì nước nào xâm phạm đến chủ quyền dân tộc của mình. Đó là một quyết tâm thể hiện rõ ý chí kiên cường của dân tộc ta, ý chí ấy là sự tiếp nối truyền thống bất khuất, kiên cường của các thế hệ đi trước. Lập trường ấy rất rõ ràng và kiên định, không có một thế lực nào có thể làm thay đổi. Không có gì quý hơn độc lập, tự do, lời nói bất hủ ấy của Bác Hồ còn mãi vang vọng. Chính vì độc lập tự do mà dân tộc ta đã hi sinh xương máu,và chắn chắc sẽ còn sẵn sàng hi sinh xương máu để bảo vệ quyền tự do, độc lập một khi nó bị đe doạ. Bằng lời văn mạnh mẽ, hùng hồn, Bác Hồ đã tố cáo tội ác dã man của thực dân Pháp đặt ách thống trị của chúng lên đầu dân tộc Việt Nam. Bác vạch rõ, trong gần một thế kỉ qua thực dân Pháp là kẻ thù không đội trời chung của dân tộc Việt Nam. Chúng đã núp dưới chiêu bài khai hóa đế rắp tâm lừa bịp, bóc lột dân tộc ta, và chính chúng là kẻ đã bán nước ta hai lần cho giặc Nhật. Bác nhấn mạnh, nhân dân ta đã lấy lại nước ta từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp và trên thực tế chúng ta đã giành được chính quyền trước khi quân đồng minh vào giải phóng quân đội Nhật. Như vậy nước Việt Nam được hưởng quyền độc lập là một điều hợp lí, hợp tình: Nước Việt Nam là của người Việt Nam. Điều đó đã là một chân lí; trước đó dân tộc ta đã khẳng định chân lí ấy một cách rõ ràng, chắc chắn. Hồ Chủ tịch đã lên tiếng: tuyên bố với thế giới rằng: Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và thực sự đã trở thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem cả tinh thần và lực lượng tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy.
Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chính Minh là một áng văn kiệt tác của nền văn học Việt Nam hiện đại. Nó tiếp nối truyền thống của cha ông xưa trong việc lên tiếng khẳng định chủ quyền bất khả xâm phạm của đất nước và quyền được sống trong độc lập tự do của dân tộc. Ra đời vào những ngày đầu tiên sau cuộc Cách mạng tháng Tám thành công, Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực sự trở thành lời tuyên bố dõng dạc của dân tộc Việt Nam trước toàn thế giới: nước Việt Nam là một nước độc lập, dân tộc Việt Nam kiêu hãnh sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì độc lập của mình.
Ngày nay chúng ta đang sống trong một đất nước hoà bình, trong đó mọi người tự do phát huy cao độ mọi khả năng và trí tuệ của mình, nhưng không phải là đã vĩnh viễn thoát khỏi sự đe doạ của chiến tranh. Chúng ta có quyền tự hào về truyền thống bất khuất của dân tộc. Truyền thống đó đã chúng minh sức mạnh trong cuộc xây dựng đất nước.