Nhắc đến Nguyễn Bỉnh Khiêm, ngươi ta luôn nhớ tới câu chuyện ông dâng sớ vạch tội và xin chém đầu mười tám lộng thần nhưng vua không nghe, ông bèn cáo quan về quê ở ẩn. Câu chuyện này đủ để ta hình dung về một cuộc sống, một nhân cách cao đẹp, sáng ngời. Và nếu đọc thêm bài thơ Nhàn, chúng ta sẽ càng thấu đáo hơn về cuộc sống đó, nhân cách đó.
Cáo quan về quê, tất nhiên Nguyễn Bỉnh Khiêm không còn được hưởng bổng lộc của triều đình nữa. Nhưng không quá nhiều người trong chúng ta nghĩ rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm dễ dàng hoà nhập với cuộc sống thôn quê đạm bạc được. Đó là lí do khiến không ít người sửng sốt khi đọc những vần thơ sau:
Một mai, một cuốc, một cần câu,
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào. (...)
Thu ăn măng trúc, dông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
Ngay từ câu thơ đầu tiên, người ta đã có cảm giác đang đứng trước một “lão nông tri điền” với những công cụ lao động: mai để đào đất, cuốc để xới đất, cần câu để câu cá. Cách đếm rành rọt: Một... một... một cho thấy tất cả sẵn sàng, chu đáo. Đồng thời, nó cũng thể hiện một phong thái ung dung, thư thái, thanh nhàn, có chút gì đó ngông ngạo, ông lão này đang bắt đầu đi làm hay đi chơi? Có lẽ cả hai. Hai chữ thơ thẩn nói trạng thái thảnh thơi của con người “vô sự”, trong lòng không bợn chút cơ mưu, tư dục. Cụm từ dầu ai vui thú nào nói lên ý thức kiên định lối sống đã lựa chọn. Hai câu thơ như đưa ta về với cuộc sống chất phác nguyên sơ của cái thời “tạc tỉnh canh điền” (đào giếng lấy nước uống, cày ruộng lấy cơm ăn).
Một mai, một cuốc, một cần câu - ý thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm khiến ta nhớ tới hai câu thơ Nguyễn Trãi trong Thuật hứng (Bài 24):
Ao cạn vớt bèo cấy muỗng
Đìa thanh phát cỏ ương sen.
Rõ ràng có sự tương đồng trong cuộc sống, lối sống của hai con người này. Đó chính là tinh thần nhập thế rất tích cực của các bậc đại ẩn. Thật khó có thể tìm thấy dấu vết của lối sông quan trường cao sang trong những câu thơ như vậy. Chủ động lựa chọn cuộc sống đó nên Bạch Vân cư sĩ sẵn sàng đón nhận cảnh sống đạm bạc:
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
Sự đạm bạc là ở những thức ăn quê mùa, dân dã như măng trúc, giá đỗ. Các món ãn đạm bạc cây nhà lá vườn này là tự mình lo, là công sức của chính mình. Ăn đã vậy, còn ở, còn sinh hoạt? Cũng tắm hồ, tắm ao như bao người dân quê khác. Chuyện sinh hoạt hằng ngày như chuyện ăn, chuyện tắm tuy đơn sơ, đạm bạc nhưng thích thú ở chỗ mùa nào cũng sẵn, chẳng phải nhọc công tìm kiếm, về mặt tinh thần, cuộc sống như thế cho phép con người được tự do, tự tại, không cần phải luồn cúi, cầu cạnh kẻ khác, không theo đuổi công danh, phú quý, không bị gò bó, ràng buộc vào bất cứ khuôn phép nào. Sau này, trong một bài thơ của mình, Hồ Chí Minh cũng viết:
Sớm ra bờ suối, tối vào hang
Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng
Thế mới biết vật chất đơn sơ không bao giờ có thể làm cho những nhân cách lớn phải vướng bận, lo toan. Đạm bạc trong cảnh sống của những con người này không đi với khắc khổ. Nó đi với thanh. Cuộc sống thanh cao trong sự trở về với tự nhiên, mùa nào thức ấy. Hai câu thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm hoạ một bộ tranh tứ bình về cảnh sinh hoạt với bôn mùa xuân, hạ, thú, đông; có mùi vị, có hương sắc, không nặng nề, không ảm đạm.
Lựa chọn một cuộc sống thanh đạm, tự nguyện hoà nhập với tự nhiên như thế hẳn phải là người có nhân cách hết sức cao đẹp. Tuyết Giang Phu Tử về với thiên nhiên, sông hoà thuận theo tự nhiên là thoát pa ngoài vòng ganh đua của thói tục, là không bị cuôn hút bởi tiền tài, địa vị, để tâm hồn an nhiên khoáng đạt. Ông đối lập với danh lợi như nước với lửa:
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khổn, người đến chốn lao xao.
Không chỉ trong bài thơ Nhàn này Nguyễn Bỉnh Khiêm mới thể hiện sự đối lập gay gắt đó. Trong một số sáng tác khác, nhà thơ cũng đem lối sống của mình đối lập với việc bon chen, giành giật để mưu danh lợi, phú quý ở thành thị:
Thành thị vốn đua tranh giành giật
(Thơ Nôm, Bài 19)
Ở triều đình thỉ tranh nhau cái danh, ở chợ búa thì giành nhau cái lợi.
(Bi kí quán Trung Tân)
Và chính sự đôi lập ấy đã thể hiện vẻ đẹp sáng ngời trong nhân cách Bạch Vân: coi thường danh lợi.
Nhà thơ đối lập nơi vắng vẻ với chốn xôn xao, đốì lập ta với người. Nơi vắng vẻ là nơi không ai cầu cạnh ta và ta cũng không cầu cạnh người. Nơi vắng vẻ là nơi tĩnh tại của thiên nhiên và là nơi thảnh thơi của tâm hồn. Là nơi ta thích thú, được sống thoải mái, an toàn, nơi không phải chốn quan trường, chợ búa, giành giật tư lợi. Người đến chốn lao xao là đến chốn cửa quyền, là đường hoạn lộ. Chốn lao xao, sang trọng thì có ngựa xe tấp nập, kẻ hầu người hạ, thủ đoạn thì có bon chen, luồn lợt, sát phạt. Chốn lao xao là chôn “chợ lợi đường danh” huyên náo, nơi con người chen chúc xô đẩy, giành giật, hãm hại nhau, là nơi nhiều nguy hiểm khôn lường.
Tìm đến sự thanh cao, tìm thấy sự thư thái của tâm hồn, Bạch Vân cư sĩ rất vui. Niềm vui chi phối cả âm điệu bài thơ, cứ nhẹ nhàng, lâng lâng, cứ thanh thản một cách kì lạ. Bài thơ vẻn vẹn tám câu, được viết theo thể luật Đường nhưng cảm xúc không hề bị bó buộc. Người đọc vẫn có cảm nhận rất rõ nét về cuộc sống đạm bạc mà thanh cao, và nhân cách vượt lên trên danh lợi của Nguyễn Bỉnh Khiêm.