Đang chuẩn bị nút TẢI XUỐNG, xin hãy chờ
Tải xuống
Giả thiết đặt ra là các quần thể cà cuống ở Việt Nam có phải nằm trong một loài Lethocerus indicus (Lepeletier et Serville) hay còn có loài khác, hoặc thậm chí là loài mới cho khoa học. Do vậy, nghiên cứu này khảo sát đặc điểm hình thái phân loại của các quần thể cà cuống thu bắt trên toàn lãnh thổ Việt Nam; nhằm xác định vị trí phân loại loài của chúng trong khu hệ động vật Việt Nam. | HỘI NGHỊ KHOA HỌC TOÀN QUỐC VỀ SINH THÁI VÀ TÀI NGUYÊN SINH VẬT LẦN THỨ 4 GHI NHẬN MỚI LOÀI CÀ CUỐNG KIRKALDYIA DEYROLLI (Vuillefroy, 1864) (LETHOCERINAE, BELOSTOMATIDAE) CHO KHU HỆ VIỆT NAM VŨ QUANG MẠNH Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Phân họ Cà cuống (Lethocerinae Lauck and Menke, 1961), thuộc họ Chân bơi (Belostomatidae) bao gồm các đại diện có kí ch thước lớn, từ 80-90 mm đến 110 -120 mm; đặc trưng bởi đốt ống chân giữa và sau bè rộng hơn, phụ miệng ngắn, thô và to, phần phụ hô hấp nhỏ, bụng mang một cấu trúc giống như đường khớp ở trên bụng. Cơ quan giao phối tách biệt hoàn toàn, với túi thừa ở phần bụng. Distant (1906) sắp xếp hệ thống phân loại họ Belostomatidae với 3 giống là Nectociris, Sphaerodaema và Belostoma. Năm 1909, Montandon ghi nhận có sự khác biệt phân loại học đáng kể giữa các loài thuộc giống Belostoma, so với loài Belostoma deyrolli và tác giả này tách loài này vào một giống mới, là giống Kirkaldyia Montandon, 1909. Lauck và Menke (1961) đã chỉnh lý hệ thống phân loại họ Belostomatidae dựa trên đặc điểm của cấu trúc cơ quan sinh dục đực. Đây là đặc điểm định loại hình thái quan trọng, cho phép phân biệt chính xác các loài khác nhau, mà cho đến thời điểm đó chưa được các tác giả khác sử dụng. Trong hệ thống phân loại ngày nay, họ Belostomatidae được chia thành 3 phân họ, gồm Cà cuống (Lethocerinae), Bọ bèo (Belostomatinae) và Hovathiniinae. Perez-Goodwyn (2006), trên cơ sở hệ thống phân loại của Menke (1960) và qua phân tích đặc điểm hình thái và chỉ tiêu số đo của anten, đốt bụng và cơ quan sinh dục đực, đã chỉnh lý hệ thống phân loại của phân họ Cà cuống Lethocerinae, với 3 giống là Lethocerus Mayr, 1853, Kirkaldyia Montadon, 1909 và Benacus Stal., 1861. Ở Việt Nam. Nguyễn Công Tiễu (1928) lần đầu tiên mô tả một số đặc điểm hình thái, giải phẫu và vai trò của cà cuống. Phạm Quỳnh Mai, Lê Xuân Huệ và Phạm Đình Sắc (2000) đã nghiên cứu một số đặc điểm sinh học phát triển của loài cà cuống. Cà cuống đã được vào danh sách trong Sách Đỏ Việt .