Đang chuẩn bị nút TẢI XUỐNG, xin hãy chờ
Tải xuống
Để góp phần đánh giá giá trị sinh học và giá trị đa dạng nguồn gen, bài báo này công bố danh mục thành phần loài cá của Trạm Đa dạng Sinh học Mê Linh dựa trên số mẫu đã thu thập và phân tích trong năm 2013. | HỘI NGHỊ KHOA HỌC TOÀN QUỐC VỀ SINH THÁI VÀ TÀI NGUYÊN SINH VẬT LẦN THỨ 6 ĐA DẠNG THÀNH PHẦN LOÀI CÁ TẠI TRẠM ĐA DẠNG SINH HỌC MÊ LINH VÀ PHỤ CẬN HOÀNG ANH TUẤN, TRỊNH VĂN CHUNG Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam Trạm Đa dạng Sinh học Mê Linh được thành lập theo Quyết định số 1063/QĐ-KHCNQG, ngày 6 tháng 8 năm 1999, nằm trong địa phận xã Ngọc Thanh, thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc. Phía Bắc giáp huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên. Phía Đông và phía Nam giáp hang dơi, thôn Đồng Trầm, xã Ngọc Thanh. Phía Tây giáp vùng đệm VQG Tam Đảo. Với hệ động vật phong phú với 26 loài thú, 109 loài chim, 27 loài Bò sát - Ếch nhái và 1.088 loài côn trùng. Tuy nhiên đến nay vẫn chưa có nghiên cứu chính thức nào công bố về thành phần loài cá tại nơi đây. Để góp phần đánh giá giá trị sinh học và giá trị đa dạng nguồn gen, bài báo này công bố danh mục thành phần loài cá của Trạm Đa dạng Sinh học Mê Linh dựa trên số mẫu đã thu thập và phân tích trong năm 2013. I. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Nghiên cứu được tiến hành tại các thủy vực thuộc địa bàn Trạm Đa dạng Sinh học Mê Linh và phụ cận trong đó suối chính là suối Quân Boong. Nghiên cứu được thực hiện trong tháng 3 năm 2013. 1. Phƣơng pháp thu thập mẫu vật Mẫu vật được thu trực tiếp bằng các loại ngư cụ khác nhau như: lưới, vợt. Mẫu vật sau khi thu thập được chụp ảnh và đeo thẻ (ghi rõ thời gian và địa điểm thu mẫu) ngay tại hiện trường sau đó được xử lý và định hình bằng dung dịch formaline 5% (J.Freyhof & D.V. Serov, 2000) và được chuyển về phân tích, định loại và được bảo quản tại phòng Sinh học, Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam. 2. Phƣơng pháp nghiên cứu trong phòng thí nghiệm Mẫu vật sau khi mang về phòng thí nghiệm sẽ được phân tích, định loại theo phương pháp so sánh hình thái của Pravadin (Pravadin, 1963). Việc định loại chủ yếu dựa trên các tài liệu của M. Kottelat (2001); J. Freyhof & Serov (2001); Rainboth (1996); Nguyễn Văn Hảo (2001, 2005). Trình tự các bộ, họ được sắp xếp theo hệ thống phân